Luận văn Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954-1975)

Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là một truyền thống vô cùng quý báu, là bài học lịch sử vô giá trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thắm nhuần được truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã tiếp thu, vận dụng và phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách lớn, giàng thắng lợi hoàn toàn, thống nhất nước nhà và tiến lên xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như ngày hôm nay. Đoàn kết quốc tế đã trở thành một phương châm hành động và nó cũng là một trong những nhân tố cơ bản, có tính quyết định bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng nước nhà, góp phần làm nên những mốc son chói lọi, những trang sử hào hùng trong lịch sử dân tộc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991, cương lĩnh đã tổng kết năm bài học của cách mạng nước ta, trong đó có bài học “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế”. Tập hợp lực lượng cho bất kỳ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nào cũng có hai bình diện: quốc gia và quốc tế. Nếu tranh thủ được sự ủng hộ, liên hiệp hành động của các lực lượng quốc tế, thì sức mạnh của dân tộc sẽ được tăng lên gấp bội. Do vây, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh dân tộc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới mặt trận quốc tế tập hợp lực lượng, tranh thủ mở rộng đoàn kết và ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của dân tộc thì đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh cho các dân tộc Vì vậy từ rất sớm xhủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là một phận trong cách mệnh thế giới. Ai là cách mệnh thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Đảng ta luôn nhận thức và thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng trong nước với phong trào cách mạng và lực lượng tiến bộ trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong cương lĩnh chính trị năm 1930 và cương lĩnh năm 1991, Đảng ta luôn quan tâm nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một nhiệm vụ chiến lược.

doc92 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8680 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954-1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là một truyền thống vô cùng quý báu, là bài học lịch sử vô giá trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thắm nhuần được truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã tiếp thu, vận dụng và phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách lớn, giàng thắng lợi hoàn toàn, thống nhất nước nhà và tiến lên xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như ngày hôm nay. Đoàn kết quốc tế đã trở thành một phương châm hành động và nó cũng là một trong những nhân tố cơ bản, có tính quyết định bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng nước nhà, góp phần làm nên những mốc son chói lọi, những trang sử hào hùng trong lịch sử dân tộc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991, cương lĩnh đã tổng kết năm bài học của cách mạng nước ta, trong đó có bài học “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế”. Tập hợp lực lượng cho bất kỳ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nào cũng có hai bình diện: quốc gia và quốc tế. Nếu tranh thủ được sự ủng hộ, liên hiệp hành động của các lực lượng quốc tế, thì sức mạnh của dân tộc sẽ được tăng lên gấp bội. Do vây, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh dân tộc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới mặt trận quốc tế tập hợp lực lượng, tranh thủ mở rộng đoàn kết và ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của dân tộc thì đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh cho các dân tộc Vì vậy từ rất sớm xhủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là một phận trong cách mệnh thế giới. Ai là cách mệnh thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Đảng ta luôn nhận thức và thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng trong nước với phong trào cách mạng và lực lượng tiến bộ trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong cương lĩnh chính trị năm 1930 và cương lĩnh năm 1991, Đảng ta luôn quan tâm nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một nhiệm vụ chiến lược. Và cũng nhờ vào truyền thống quý báu đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân ta tiêu diệt, làm tan rã và xóa bỏ toàn bộ bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi cuối cùng, thắng lợi này đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.-giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chiến công lớn của thế kỷ XX, Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, là một thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Góp phần vào thắng lợi trường kỳ đó, có nhiều yếu tố và Đoàn kết quốc tế cũng là một trong những nguyên nhân cực kỳ quan trọng dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Với tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)” Lịch sử vấn đề Liên quan đến đề tài “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)” có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây: - Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của tập thể tác giả là các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ quốc tế ở nước ta. Cuốn sách làm sống lại những sự kiện đối ngoại chủ yếu của Đảng, nhà nước ta và ngoại giao nhân dân trong nữa cuối của thế kỷ XX - Liên Bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, Hà Nội-1998, do tác giả ILYA V. GAIDUK. Cuốn sách đã nêu bật lên mối quan hệ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đi sâu vào nghiên cứu những hoạt động của Liên Xô trong cuộc chiến tranh Việt Nam. - Quan hệ Việt Nam -Trung Quốc những sự kiện 1961-1970, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nôi, 2006, tác giả là TS. Nguyễn Đình Liêm. Đây là một tập “tư liệu lịch sử” đã sơ bộ được hệ thống hóa một cách khoa học về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1961-1970 - Hồ Chí Minh chiến sĩ cách mạng quốc tế, Nhà xuất bản quân đội nhân dân Hà Nội, 2000 của hai tác giả Phan Ngọc Liên và Trịnh Vương Hồng. Trong cuốn sách này các tác giả đã tổng hợp tất cả những hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử, những chính sách ngoại giao hết sức mềm dẻo của Bác Hồ. Thế nhưng các tác giả này nghiên cứu ở một góc độ khác nhau, chủ yếu là thiên về lĩnh vực ngoại giao. Trên cơ sở những tài liệu này và một số tài liệu đáng tin cậy khác, ở đây tôi xin đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể những hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cả quá trình cách mạng Việt Nam và nó cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới ngày nay. Xuyên suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, cũng như trong quá trình đổi mới Đoàn kết quốc tế cùng với đoàn kết dân tộc đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam, đất nước Việt Nam vượt qua nhiều thử thách, khó khăn đi đến thành công như ngày hôm nay. Với phạm vi là một đề tài luận văn tốt nghiệp, tôi chỉ đề cập đến những hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975. Từ đó rút ra ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm thiết thực để vận dụng những thành tựu đó vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài: “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”, tôi xác định cần đạt được các mục đích, nhiệm vụ sau đây: Mục đích - Góp phần khẳng định giá trị của đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam. - Làm rõ vai trò, tầm quan trọng của Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975) - Rút ra ý nghĩa, bài học kinh nghiệm cho hoạt động Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975) - Mặc khác, nghiên cứu hoàn thành đề tài này giúp tôi làm quen được với việc nghiên cứu khoa học, cũng như trang bị cho tôi thêm về mặt kiến thức và có thể sử dụng luận văn này làm tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy sau này. Nhiệm vụ - Phân tích những lý luận chung và những cơ sở hình thành tư tưởng Đoàn kết quốc tế của Đảng ta - Hệ thống và đi sâu vào làm rõ những hoạt động Đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975, một trong những nguyên nhân góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước. - Đánh giá, nhận xét những hoạt động Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975) Phương pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích yêu cầu đề ra, trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: - Phương pháp lịch sử - Phương pháp logic - Phương pháp phân tích- tổng hợp Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có ba chương: - Chương 1: Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta - Chương 2: Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954-1975) - Chương 3: Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm Phần nội dung Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về đoàn kết quốc tế của Đảng ta 1.1. lý luận chung về đoàn kết quốc tế 1.1.1. Đoàn kết quốc tế là gì? Trong Từ điển Tiếng Việt do trung tâm từ điển học và nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1994 và sau đó là các từ điển khác đều đưa ra khái niệm đoàn kết là: “kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì mục đích chung” [25, tr.9] Còn đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh tức là đoàn kết tất cả các dân tộc trong một quốc gia, kể cả sống ở trong nước hay ở nước ngoài miễn là người Việt Nam thì không được phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai,…không phân biệt về chính trị, tôn giáo…Tất cả phải đoàn kết vì một mục tiêu chung là độc lập, tự do cho dân tộc, cho đất nước. Vậy đoàn kết quốc tế là liên kết, tập hợp tất cả các dân tộc, các nước các trên thế giới thành một khối thống nhất. Đó là chúng ta hiểu đoàn kết quốc tế theo nghĩa chung nhất. Còn nếu xét theo cấp độ mục tiêu thì chúng ta có thể chia đoàn kết quốc tế ra làm hai loại: thống trị và chống lại sự thống trị. Về thống trị đó là mục tiêu của các nước đế quốc lớn, có sức mạnh về kinh tế chính trị lẫn quân sự, các nước này luôn có tham vọng làm bá chủ thế giới, muốn bành trướng thế và lực của mình nên chúng tìm cách cấu kết lại với nhau để áp bức, bóc lột các nước yếu hơn mình. Chẳng hạn như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý…Và chính vì thế chúng đã cùng nhau thành lập nhiều tổ chức quân sự hùng mạnh như: SEATO, NATO… Để chống lại sự thống trị tàn bạo của các nước đế quốc hùng mạnh đó, thì các nước bị áp bức, bóc lột họ đã tự giác ngộ được một chân lý là muốn thoát giải phóng mình thì không có con đường nào khác là tất cả họ phải đoàn kết lại thành một hệ thống - tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại các nước đế quốc, vì tất cả các dân tộc ở các nước này dù màu da, tôn giáo, chính trị có khác nhau nhưng ở họ lại có chung một kẻ thù lớn đó là chủ nghĩa đế quốc, và đằng sau sự phục tùng vô điều kiện đó, ở họ đang sục sôi một nỗi căm phẫn to lớn chờ cơ hội bùng cháy, tất cả họ đều khao khát có được tự do. Điều kiện đó đã đưa họ lại gần nhau, liên kết chặt chẽ với nhau thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh ngang tầm và đối đầu lại các nước đế quốc. Và vào lúc ấy, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thành công và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thắng lợi này đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân và chứng minh lí luận cách mạng vô sản của Lênin là hoàn toàn đúng. Đồng thời nó cũng mở đường cho chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa phát triển. Vào giữa thế kỷ XIX, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên phong chỉ đường. Chủ nghĩa Mác ra đời, khẳng định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư bản, nhường bước cho xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa; đồng thời chỉ rõ sừ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản và nêu lên khẩu hiệu chiến lược: Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại! Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa và đã căn bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách áp bức thực dân ở khắp các nước châu Á, Phi và Mỹ latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: Một khu vực gồm các nước công nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây và khu vực kia bao gồm các nước thuộc địa, thường được là phương Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để được giải phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân, trở thành một điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với phong trào cách mạng ở các nước chính quốc. Sang thế kỷ thứ XX, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra dồn dập, báo trước bước chuyển biến trong tình hình quốc tế, cuộc xung đột tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ápganixtan, Inđônêxia,....Bão táp cách mạng với “Phương Đông thức tỉnh” là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này. Trong bối cảnh ấy, Lênin phân tích tình hình cụ thể,tiếp tục phát triển chủ nghĩa trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình, đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lênin là đúng bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Người. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với phong tào cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc tế cộng sản; Đồng thời phát triển khẩu hiệu chiến lược của Mác thành: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại! [25, tr.42] Như vậy đoàn kết quốc tế có nhiều xu hướng khác nhau, nhưng ở đây đoàn kết quốc tế mà chúng tôi muốn đề cập đến đó chính là sự đoàn kết giữa các nước thuộc địa, các nước bị áp bức, bóc lột và với tất cả các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới để chống lại chủ nghĩa đế quốc. 1.1.2. Tính tất yếu của đoàn kết quốc tế Đoàn kết, hợp tác quốc tế giữa các nước là một vấn đề tất yếu lịch sử Liên minh, hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc là một hiện tượng lịch sử - xã hội phát triển có quy luật. Nội dung, tính chất và hình thức liên minh, hợp tác mang dấu ấn thời đại và giai cấp rõ rệt, giữ vị trí trung tâm của thời đại. Xu thế phát triển của lịch sử xã hội loài người là các nước, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, có quan hệ ngày càng sâu rộng. Xu thế đó bắt nguồn từ những tiền đề, điều kiện khách quan. Nền kinh tế thế giới ngày nay phát triển vượt khỏi khuôn khổ quốc gia, phá vỡ hàng rào dân tộc, mở rộng quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa tư bản ra đời, sản xuất hàng hoá và công nghiệp phát triển, chuyên môn hoá ngày càng sâu, đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi. Nhiều phương tiện giao thông và thông tin liên lạc hiện đại như hàng hải, hàng không, điện tín, điện báo... mà một thời chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc độc quyền sử dụng làm công cụ đi chinh phục, xâm lược các nước, ngày nay đã và đang trở thành phương tiện chung của các dân tộc để thực hiện mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển. Nền vǎn minh nhân loại đã phát triển vượt khỏi khuôn khổ một nước, tạo điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế giữa các dân tộc. Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ra đời, hai lực lượng có tính chất quốc tế. Giai cấp vô sản muốn chiến thắng giai cấp tư sản thì phải bằng sức mạnh đoàn kết vô sản toàn thế giới. Mác nêu khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại!”. Trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa bao trùm cả thế giới, Lênin phát triển khẩu hiệu trên thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng mười Nga năm 1917 mở ra thời đại- thời đại quá độ từ chủ nghĩa Tư bản lên chủ nghĩa xã hội tren phạm vi toàn thế giới, cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Ngay từ những nǎm 20 của thế kỷ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tư tưởng lý luận của Mác và của Lênin. Người đã dùng hình tượng hai cánh chim và hình tượng con đỉa hai vòi để nêu lên sự kết hợp chặt chẽ giữa hai trào lưu cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định công cuộc giải phóng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình” và “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Đồng thời với việc khẳng định sự nỗ lực “của chính bản thân mình”, Người hết sức coi trọng sự liên minh quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc để đấu tranh cho hoà bình. Người nói: “Vì nền hoà bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” [25, tr.17]. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga nǎm 1917 mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt đòi hỏi phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới đang diễn ra mạnh mẽ, tạo bước phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, tǎng cường xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, hình thành một thị trường thế giới, trong đó các hệ thống kinh tế cạnh tranh với nhau. Mặt khác, sự hợp tác kinh tế là một yêu cầu phát triển tất yếu của tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Đúng như Lênin đã chỉ rõ: “Có một sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và sự quyết tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới, chúng bắt buộc họ phải tiếp xúc với chúng ta”. Thế giới là một thể thống nhất có mâu thuẫn. Các nước vừa độc lập, vừa phụ thuộc lẫn nhau. Các quốc gia dân tộc sống trên hành tinh đều cần duy trì sự sống. Nhưng những mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại; đồng thời lại xuất hiện những mâu thuẫn mới có tính toàn cầu như mâu thuẫn giữa hoà bình và chiến tranh. Các dân tộc đều có quyền độc lập, song không thể sống biệt lập với cộng đồng quốc tế, không thể không có sự hợp tác quốc tế mà giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ phát triển của dân tộc mình. Trong thế giới hiện đại, nhiều vấn đề đặt ra có liên quan đến vận mệnh của các dân tộc. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân huỷ diệt, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Con đường giải quyết có hiệu quả nhất các vấn đề trên là phối hợp sức lực và tài nǎng với ý thức trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc trên thế giới. Không một nước nào, dù đó là nước lớn, có thể tự giải quyết được những vấn đề trên. 1.1.3. Mục tiêu của đoàn kết quốc tế - Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế nhằm ngăn chặn và loại trừ những mối đe dọa hòa bình và thủ tiêu hành động xâm lược của các nước đế quốc, giải quyết các tranh chấp và xung đột quốc tế bằng phương pháp hòa bình. - Phát triển các cơ quan hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết giữa các dân tộc. - Đoàn kết quốc tế cho mục tiêu độc, lập tự do dân tộc và đoàn kết, hữu nghị bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các nước, các dân tộc trên thế giới. - Hợp tác, tương trợ và sẵn sàng giúp đở lẫn nhau về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa; tôn trọng quyền con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. 1.1.4. Vị trí vai trò của đoàn kết quốc tế Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng và nhà nước ta ra sức mở rộng hoạt động đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước. Đảng ta đã coi hoạt động đoàn kết quốc tế là một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần to lớn tạo nên sự vượt trọi về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra trong lúc trên thế giới hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản đã có những bước phát triển to lớn làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho sự nghiệp cách mạng và hòa bình. Phong trào đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa bình thế giới thu hút nhân dân các nước tham gia ngày càng đô