Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp cả nước
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất
kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân tăng tích luỹ, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Tuy vậy, kinh tế tư nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy
mô, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân".
Chọn đề tài: "Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay" tôi muốn góp thêm tiếng nói nhỏ của mình
vào việc nhận thức đúng vai trò và sự cần thiết của việc thúc đẩy phát triển kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1754 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế tư
nhân ở Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp cả nước
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất
kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân tăng tích luỹ, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Tuy vậy, kinh tế tư nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy
mô, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu…
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân".
Chọn đề tài: "Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay" tôi muốn góp thêm tiếng nói nhỏ của mình
vào việc nhận thức đúng vai trò và sự cần thiết của việc thúc đẩy phát triển kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Chương I
đặc điểm chung của nền kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân trên thực tế có sức sống mãnh liệt và đã có nhiều đóng góp
cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng có thời kỳ do nhận thức sai lầm,
nóng vội đã coi kinh tế tư nhân là đối tượng phải cải tạo không được khuyến khích
phát triển, không được pháp luật bảo vệ. Những người hoạt động trong thành phần
kinh tế này có địa vị chính trị thấp kém. Sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc,
kìm hãm, chèn ép. Ngay trong những điều kiện đó, kinh tế tư nhân cá thể vẫn tồn tại
và ngày càng khẳng định thế đứng của mình.
I. đặc điểm kinh tế tư nhân
1. Các lĩnh vực kinh tế tư nhân
Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khoá IX)
về phát triển kinh tế tư nhân, đề cập đến kinh tế tư nhân bao gồm hai thành phần
kinh tế là kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại
hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân tham gia vào tất cả các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp và các loại hình dịch vụ
khác.
2. Các loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân
Loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân rất đa dạng, phổ biến nhất là
hộ cá thể, tiểu chủ; loại hình công ty hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và và
dưới hình thức: công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh.
Trong kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh cá thể có số lượng đông đảo, sử dụng
nhiều lao động xã hội, huy động nhiều vốn đầu tư, đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP.
Hộ kinh doanh cá thể có tiền đề, là bước tập dượt và tích luỹ cho bước phát triển
cao hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thức doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần sản xuất hàng hoá có chất lượng cao,
tham gia tích cực vào xuất khẩu hàng hoá, nhất là nông sản hàng hoá, giúp nông dân
tiêu thụ một khối lượng hàng hoá nông sản. Sự hoạt động sôi động của doanh
nghiệp tư nhân đã thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các chủ tư nhân hầu hết là các doanh nghiệp trưởng thành trong chế độ mới,
nhiều người trong số họ là cán bộ đảng viên, đã từng tham gia trong các cơ quan,
doanh nghiệp nhà nước và có một số đã trải qua thời kỳ tham gia lực lượng vũ
trang, có nguyện vọng muốn đem tài năng, trí tuệ của mình vào phát triển kinh tế
đất nước, làm giàu cho tổ quốc.
II. Vai trò của kinh tế tư nhân
1. Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm của kinh tế tư nhân nhìn chung là tăng ổn định trong những
năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là 12,89%, năm 1998 là 12,74%, năm
1999: 7,5%, năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP. Tỷ
trọng GDP của kinh tế tư nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và
đóng góp cuả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
2. Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội, nộp ngân sách cho nhà
nước
Trong những năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm
tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2000 đạt 35.894 tỷ đồng, tăng
13,8% so với năm 1999, chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2000 vốn
đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đòng, chiếm 19,82% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội; vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp tư nhân đạt 6.627 tỷ đồng,
chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đóng góp vào ngân sách nhà nước của kinh tế tư nhân ngày càng tăng. Năm
2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, ước tính chiếm 7,3% tổng thu ngân sách, tăng 12,5%
so với năm 1999; năm 2001 dự kiến nộp 6.370 tỷ đồng, tăng 7,96%.
3. Kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xoá đói giảm nghèo
Hiện nay, số lượng lao động trong kinh tế tư nhân là 4.643.844 người chiếm
12% tổng số lao động xã hội, bằng 1,36 lần tổng số việc làm trong kinh tế nhà nước.
Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người, của các doanh nghiệp tư
nhân là 841.787 người.
Việc tạo ra nhiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao động trong
xã hội, nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải
quyết số dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giản biên chế và giải
thể.
4. Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế đổi cơ chế
quản lý kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng nhiều lao
động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp đã giúp
chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất
nước.
Trình độ sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ hơn, số
lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm của kinh tế tư
nhân được xuất khẩu uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Kinh tế tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình
sản xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vựac kinh tế tư nhân đến nay
đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ
phần đạt 361.759.990 USD, công ty tư nhân đạt 211.900.000 USD (số liệu của tổng
cục Hải quan).
Chương II
Những vấn đề của kinh tế tư nhân hiện nay
I. Thực trạng kinh tế tư nhân
Trong những năm qua kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, vốn kinh
doanh, thu hút lao động, nhất là loại hình doanh nghiệp, công ty.
Kinh tế tư nhân phát triển rộng khắp trong các ngành nghề mà pháp luật không
cấm. Số cơ sở nhiều nhất mà pháp luật không cấm. Số cơ sở nhiều nhất là trong lĩnh
vực thương mại, dịch vụ, xây dựng, tiếp đến là công nghiêp, tiểu thủ công nghiệp.
1. Tình hình tăng trưởng doanh nghiệp
Trong giai đoạn 1996-2000, số lượng đơn vị sản xuất, kinh doanh hoạt động
trong kinh tế tư nhân tăng lên đáng kể, số hộ kinh doanh cá thể tăng 6,02%, số
doanh nghiệp tăng 45,61%, nhưng không đều qua các năm (số hộ kinh doanh cá thể
năm 1997 giảm, số doanh nghiệp năm 1998 giảm và tăng mạnh từ năm 2000 khi có
Luật doanh nghiệp).
Trong cơ cấu các hình thức tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân, các hộ cá
thể chiếm số lượng rất lớn, đến cuối năm 2000 có 2.137.731 hộ và 29.548 doanh
nghiệp.
Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân chiếm số lượng lớn
nhất, tiếp đến là công ty trách nhiệm hữu hạn, sau đó là công ty cổ phần, công ty
hợp danh chiếm số lượng không đáng kể.
2. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân
Vốn của hộ kinh doanh cá thể
Tổng vốn đầu tư phát triển của các hộ kinh doanh cá thể năm 2000 là 29.267
tỷ đồng tăng 12,93% so với năm 1999. Vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể năm
2000 chiếm 81,54% trong tổng số vốn đầu tư của kinh tế tư nhân và chiếm 19,82%
vốn đầu tư xã hội.
Tổng vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể là 63.668 tỷ
đồng, chiếm 36,61% trong tổng số vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của kinh tế tư
nhân (tính đến ngày 31-12-2000).
Vốn của doanh nghiệp tư nhân.
Từ khi có luật doanh nghiệp đến hết tháng 4 -2002 cả nước có trên 41.000
doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đăng ký tương đương 3,6 tỷ USD.
Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp cũng tăng nhanh. Năm 2000 là 110.071
tỷ đồng, tăng 38,46% so với năm 1999; trong đó của công ty trách nhiệm hữu hạn
tăng 40%, doanh nghiệp tư nhân tăng 37,64%, công ty cổ phần tăng 36,7%. Năm
2000 kinh tế tư nhân đã đầu tư mau 20,3% cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước
đã cổ phần hoá.
Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tư nhân tăng cả về lượng vốn
và tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển của kinh tế tư nhân và của toàn xã hội.
Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tăng từ 5.628 tỷ đồng năm 1999 lên
6.627 tỷ đồng năm 2000; tăng 17,7%; tỷ trọng trong kinh tế tư nhân tăng từ 17,84%
năm 1999 lên 18,46% năm 2000; tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ
4.29% năm 1999 lên 4,49% năm 2000
3. Về lao động của kinh tế tư nhân.
Năm 2000, lao động trong kinh tế tư nhân, kể cả khu vực nông nghiệp là
21.017.326 người, chiếm 65,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước.
Trong các ngành phi nông nghiệp, số lao động kinh tế tư nhân năm 2000 là
4.643.844 lao động, tăng 20,12% so với năm 1996; bình quân mỗi năm tăng
194.670 lao động, tăng 4,75% năm.
Tính từ năm 1996 đến nay, lao động trong công nghiệp tăng nhiều hơn ngành
thương mại, dịch vụ. Năm 2000 so với năm 1996 lao động trong công nghiệp thêm
được 363.442 người, tăng 20,68%; trong khi lao động thương mại, dịch vụ thêm
được 271.476 người. Lao động công nghiệp ở doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh hơn
ở hộ kinh doanh cá thể; năm 2000 so với năm 1996, lao động công nghiệp ở doanh
nghiệp tăng 114,02%;l lao động công nghiệp ở hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng được
6,4%.
4. Tăng trưởng sản xuất kinh doanh (GDP) kinh tế tư nhân
Tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục trong
những năm gần đây. Năm 1996 GDP kinh tế tư nhân đạt 68.518 tỷ đồng, đến năm
2000 lên 86.929 tỷ đồng, tăng bình quân 7%/năm. Tương ứng GDP của hộ kinh
doanh cá thể từ 52.169 tỷ đồng năm 1996 lên 66.142 tỷ đồng năm 2000, tăng bình
quân 7%/năm; của doanh nghiệp từ 14.780 tỷ đồng lên 20.787 tỷ đồng, tăng bình
quân 7,1%/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP của kinh tế tư nhân xấp xỉ tốc độ tăng
GDP toàn bộ nền kinh tế.
Năm 2000 khuvực kinh tế tư nhân chiếm 42,3% GDP cả nước. Trong đó GDP
kinh tế tư nhân phi nông nghiệp bằng 63,6% GDP của kinh tế tư nhân và bằng
26,87% GDP cả nước.
II. Những khó khăn, hạn chế trong sản xuất kinh doanh kinh tế tư nhân
1. Khó khăn về vốn, hạn chế về tín dụng
Các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân nói chung đều rất thiếu vốn
sản xuất. Đến cuối năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh khi mới thành lập của các
doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ trên dưới 1 tỷ đồng. Số vốn hoạt động kinh
doanh bình quân là 3,8 tỷ đồng một doanh nghiệp.
Theo báo cáo của các địa phương đều cho rằng kinh tế tư nhân thiếu vốn phải
đi vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao và thời hạn ngắn, rất khó tiếp
cận với các nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là nguồn vốn
ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp tư nhân còn non
trẻ, nên tài sản sẵn có còn ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay mà không cần
thế chấp; nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa biết lập dự án đầu tư, hơn nữa thường bị
các tổ chức tín dụng cho là các khách hàng nhỏ, với kiểu hoạt động tạm thời, có thể
không báo cáo đúng tình hình kinh doanh, dự án thường không có tính khả thi cao,
khó giám sát đầu tư, chi phí giao dịch cao.
Tổng dư nợ của kinh tế tư nhân (phi nông nghiệp) chiếm 23,9% tổng dư nợ
chung của ngân hàng năm 2000 và 22,6% trong 6 tháng đầu năm 2001.
2. Khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh
Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và phát triển từ khi có chủ
trương đổi mới, và tăng nhanh sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành. Nhà
nước đã tiến hành giao quyền sử dụng đất theo Luật đất đai, do đó về cơ bản không
còn "đất vô chủ"; do các doanh nghiệp tư nhân ra đời muộn, không còn được Nhà
nước ưu đãi về đất như trước, chính vì vậy thiếu mặt bằng kinh doanh đang là trở
ngại lớn đối với các cơ sở kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu
dân cư làm nơi sản xuất, kinh doanh nên chật hẹp, gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng tới sinh hoạt của dân cư trong khu vực, gây ra những khiếu kiện; khó mở
rộng sản xuất kinh doanh .
3. Khó khăn về môi trường pháp lý, tâm lý xã hội
Về môi trường pháp lý
Trở ngại lớn đối với kinh tế tư nhân là môi trường pháp lý chưa đồng bộ,
chưa hoàn thiện, còn nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, dẫn tới tình trạng
các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc chấp hành pháp
luật.
Về môi trường tâm lý xã hội
Môi trường tâm lý xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của kinh tế tư nhân. Trong xã hội còn có phần định kiến đối với kinh tế tư
nhân, chưa nhìn nhận đúng vai trò nhà kinh doanh tư nhân trong xã hội.
4. Khó khăn của bản thân kinh tế tư nhân
Nhìn chung, kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hiệu
quả sản xuất, kinh doanh trong khoảng thời gian dài và đảm bảo sức cạnh tranh cần
thiết, nhất là khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, do:
- Kinh tế tư nhân của ta mới ở trình độ thấp của sự phát triển, tổ chức theo
hình thức kinh tế hộ gia đình cá thể còn chiếm tuyệt đại đa số, hình thức doanh
nghiệp của tư nhân tuy đã phát triển mạnh trong thời gian gần đây nhưng vẫn còn ở
quy mô nhỏ là chủ yếu.
- Khả năng tích tụ vốn cũng như huy động nguồn vốn xã hội cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh còn thấp, trình độ công nghệ thấp.
- Trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu, không thu hút được nhiều lao động có
tay nghề cao được đào tạo cơ bản.
- Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết mới thoát thân từ cơ chế bao
cấp, nên còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng mong chờ sự giúp đỡ, che chở của Nhà
nước.
Chương III
đổi mới cơ chế chính sách
để phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam
I. Xây dựng và thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân
1. Chính sách tín dụng đầu tư
Nhà nước dành một khoảng vốn đáng kể, thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển (kế
hoạch năm 2001 là 23.800 tỷ đồng) để vay trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi,
hỗ trợ lãi suất sau đầu tư vào các lĩnh vực khuyến khích đầu tư tại các địa bàn khó
khăn, hoặc theo các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ, không phân biệt thành
phần kinh tế.
Nghị định 05/NĐ-CP về việc bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch
kinh tế - xã hội năm 2001 đã tháo gỡ được một phần khó khăn, vướng mắc về thủ
tục đầu tư cho kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên trong này vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
vay từ các ngân hàng thương mại và Quỹ hỗ trợ phát triển.
2. Chính sách mặt bằng, đất đai cho kinh tế tư nhân
Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 đã thể hiện chính sách cấp đất ổn định, lâu dài
cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, yêu cầu tất cả các tổ chức, cá nhân, gia đình
và các thành phần kinh tế muốn sử dụng đất đai được cấp để kinh doanh phải
chuyển sang hình thức thuê đất.
Các Nghị định 17/1999/NĐ-CP, ngày 29-3-1999; Nghị định 79/2001/NĐ-CP,
ngày 1-11-2001 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 17-1999/NĐ-CP là cơ
sở pháp lý thực hiện việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa
kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định việc miễn giảm đáng kể tiền
thuê đất, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
3. Chính sách về khoa học và công nghệ
Nhà nước có một số văn bản tạo khung pháp lý chung về chính sách khoa học,
công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chung cho các thành phần kinh tế,
đã hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng khoa học - kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ mới nhằm thay thế công nghệ cũ, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất
được những sản phẩm chất lượng ngày càng cao hơn, mẫu mã đa dạng, tăng được
năng suất lao động, khả năng cạnh tranh… đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước
và tăng được hàng xuất khẩu .
Nghị định 45/1998/NĐ-CP quy định cụ thể về chuyển giao công nghệ, khuyến
khích chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ mới.
4. Chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán
Chính sách thuế
Các chính sách thuế dần được ban hành và áp dụng thống nhất cho các thành
phần kinh tế trong nước. Tuy còn một số hạn chế nhưng những chính sách thuế
doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu… bước đầu đã xoá bỏ được
sự cách biệt giữa kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và hợp tác xã. Từ năm 1999 việc
áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và tiếp tục
hoàn thiện các loại thuế khác làm cho chính sách thuế đã thể hiện rõ sự công bằng,
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khắc phục dần sự chồng chéo về thuế, chính
sách thuế đã khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu.
. Các quy định về tài chính, kế toán, kiểm toán.
Về chế độ tài chính: Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định riêng về chế độ
quản lý tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế các cơ quan nhà nước
phải vận dụng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước để áp dụng
quản lý, thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các doanh nghiệp của tư nhân.
Về chế độ kế toán đã góp phần tăng cường công tác quản lý tài chính khu vực
này. Tuy nhiên, chế độ kế toán này cũng bộc lộ một số hạn chế như: chưa tách được
các loại vốn ngắn hạn và dài hạn; các quy định về chế độ kế toán chưa đáp ứng
được yêu cầu cung cấp thông tin cho tính toán và xác định nghĩa vụ thuế; chưa thật
phù hợp với quy mô và năng lực của doanh nghiệp nên có nhiều khó khăn trong
việc thực hiện; một số chỉ tiêu quá chi tiết nhằm mục đích phục vụ quản lý nhà
nước hơn là phục vụ doanh nghiệp.
5. Chính sách về đào tạo, tiền lương, bảo hiểm xã hội
Đào tạo nghề cho lao động kinh tế tư nhân
Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở dạy nghề dân lập, tư
thục, cụ thể được quy định tại Nghị định 73/1999/NĐ-CP, ngày 19-8-1999 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, văn hoá, thể thao.
Chính sách tiền lương
Theo quy định của Bộ luật Lao động và Bộ luật Dân sự, chế độ tiền lương,
tiền công của người lao động làm việc trong kinh tế tư nhân thực hiện trên nguyên
tắc thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất
lượng và hiệu quả công việc. Mức lương người lao động được trả không thấp hơn
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Chính sách bảo hiểm xã hội
Loại hình bảo hiểm xã hội được áp dụng bắt buộc đối với những doanh nghiệp
sử dụng 10 lao động trở lên, cho nên những doanh nghiệp có dưới 10 lao động và
các hộ kinh doanh cá thể không được tham gia.
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy định này để trốn tránh trách nhiệm của
người sử dụng lao động trong việc đóng bảo hiểm cho người lao động như: ký hợp
đồng lao động ngắn hạn dưới 3 tháng với người lao động; hoặc chỉ hợp đồng miệng;
hay chỉ đăng ký lao động dưới 10 người để không phải đóng bảo hiểm xã hội.
6. Chính sách thông tin, tiếp cận thị trường
Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc đáp ứng thông tin cho doanh nghiệp
về luật pháp, chính sách và tình hình thị trường. Doanh nghiệp được quyền tiếp cận
thị trường, kể cả