Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, có vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình phát triển của đất nước. Họ cũng là lực lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ
của nước nhà, là lớp người đang trong quá trình hoàn thiện, khẳng định nhân cách và tài
năng của mình. Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang là
vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, không
chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn đối với các nhà lãnh đạo quản lý, các tổ chức, cơ
quan giáo dục - đào tạo.
Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở
rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của sinh viên Việt Nam đang
có nhiều biến đổi. Những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã củng cố niềm tin
của nhân dân nói chung, của sinh viên nói riêng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hàng loạt các giá trị mới được hình
thành, góp phần làm đa dạng, phong phú lối sống của các tầng lớp nhân dân, trong đó
có đội ngũ học sinh, sinh viên nước nhà. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế thị
trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho các cá nhân, các nhóm xã
hội năng động, cởi mở và giàu khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trường
trong nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng đã và đang tạo điều kiện
cho sinh viên tiếp thu các giá trị tốt đẹp từ lối sống của các dân tộc khác để bổ sung và
không ngừng hoàn thiện nhân cách, lôi sống của mình.
92 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2819 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây
dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam
hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, có vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình phát triển của đất nước. Họ cũng là lực lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ
của nước nhà, là lớp người đang trong quá trình hoàn thiện, khẳng định nhân cách và tài
năng của mình. Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang là
vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, không
chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn đối với các nhà lãnh đạo quản lý, các tổ chức, cơ
quan giáo dục - đào tạo.
Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở
rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của sinh viên Việt Nam đang
có nhiều biến đổi. Những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã củng cố niềm tin
của nhân dân nói chung, của sinh viên nói riêng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hàng loạt các giá trị mới được hình
thành, góp phần làm đa dạng, phong phú lối sống của các tầng lớp nhân dân, trong đó
có đội ngũ học sinh, sinh viên nước nhà. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế thị
trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho các cá nhân, các nhóm xã
hội năng động, cởi mở và giàu khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trường
trong nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng đã và đang tạo điều kiện
cho sinh viên tiếp thu các giá trị tốt đẹp từ lối sống của các dân tộc khác để bổ sung và
không ngừng hoàn thiện nhân cách, lôi sống của mình.
Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức với vấn đề lối
sống và việc xây dựng lối sống mới, đặc biệt là vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống vào quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay. Hiện
tượng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và sinh viên đã
và đang diễn ra hết sức phức tạp. Tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng, đời sống văn
hoá tinh thần, nhất là sự xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống, khuynh hướng muốn
hiện đại hoá theo kiểu Tây hoá, Mỹ hoá, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, lãng
quên truyền thống cha ông để lại... đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong thanh
niên, sinh viên. Tại Hội nghị BCH TW lần thứ mười, khoá IX, Đảng ta nhấn mạnh:
“tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và
tội phạm, đáng lo ngại nhất là trong giới trẻ”[4, tr.14].
Đại hội Đại biểu toàn Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VIII (tháng 2- 2009) đã
đánh giá:
Sinh viên Việt Nam đã phát huy được những ưu điểm và truyền thống
tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đi trước, thi đua học tập, rèn luyện, tiếp thu
tiến bộ khoa học, công nghệ, chủ động tiếp thhu nét đẹp của sinh viên quốc
tế, tạo nên lớp sinh viên những năm đầu thế kỷ XXI mang tính cách truyền
thống và thời đại.....Tuy nhiên, nhiều sinh viên còn mang nặng tính bình quân
chủ nghĩa...., một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu, động cơ
học tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập, thiếu
trung thực trong thi cử, kiểm tra, chưa thể hiện rõ ước mơ, hoài bão, thụ
động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử kém, tinh thần trách nhiệm xã hội còn hạn
chế, có những biểu hiện chưa tốt về lối sống , mắc tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật, một bộ phận sinh viên còn dễ bị lợi dụng, lôi kéo vào những hoạt
động với mục đích xấu [2, tr 2-3].
Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng lối sống mới- lối sống xã hội chủ nghĩa-
cho sinh viên cũng như tìm hiểu những nhân tố tác động đến lối sống của sinh viên Việt
Nam hiện nay có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn:
“Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống đã từng thu hút sự chú ý,
quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý giáo dục, của giới lý luận trong và ngoài nước
Đảng cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng luôn chú trọng và phát huy
các giá trị truyền thống của dân tộc và đã tạo ra được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng CNXH . Nhiều chủ trương,
đường lối nhằm phát huy giá trị truyền thống dân tộc của Đảng đã được thể hiện trong
các văn kiện của nhiều kỳ đại hội, đặc biệt là đại hội VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết
khác của Trung ương.
Đã có những công trình chuyên khảo nghiên cứu về truyền thống và giá trị truyền
thống Việt Nam trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH, đã đi sâu vào
phân tích những thách thức và cơ hội của toàn cầu hoá đối với việc giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống trước thách thức toàn cầu hoá. Trong đó tiêu biểu có các công
trình: “ Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam” do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1980. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích các giá trị tinh
thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là “chủ nghĩa yêu nước” Việt Nam- cái làm nên
bản sắc, tinh thần, cốt cách Việt Nam; “ Biện chứng của truyền thống” của Hà Văn Tấn,
Tạp chí Cộng sản, số 3- 1981; “ Về truyền thống dân tộc” của Trần Quốc Vượng, Tạp
chí Cộng sản, số 3- 1981; “Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng
con người mới ở nước ta” của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 5- 1986;
“ Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện
đại” của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4- 1992; “ Tìm hiểu định hướng giá
trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, do Thái Duy Tuyên chủ
biên, Hà Nội, 1994; “ Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” do
Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, tháng 4- 1995; “ Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh
niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết
học, số 5- 1995; “ Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo
đức hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, Số 6- 1996; “ Sự tác động hai
mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của Nguyễn Tĩnh Gia,
Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2- 1997; “ Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ
đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay” của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số
5- 1998; “ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường” của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5 – 1998; “Vấn đề khai
thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí
Triết học, số 2- 1998. “ Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo
đức?” của Hoàng Trung, Tạp chí triết học, số 4- 2000; “ Kế thừa và đổi mới các giá trị
đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay”, Luận án tiến sỹ triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; “ Giá trị đạo đức và sự
biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3-
2001; ; “ Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo
đức trong nền kinh tế thị trường” của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5- 2000;
“ Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” của Lê Sỹ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5- 2002; “ Một số biểu hiện của sự biến
đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục” của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6- 2002; “ Khoa học công nghệ
và đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Đình Hoà, Tạp chí Triết học, số 6
– 2002; “ Từ cái thiện truyền thống đến “ cái thiện” trong cơ chế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí triết học, số 8 – 2002; “ Quan hệ biện chứng
giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay”, Luận
án tiến sỹ triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; “ Tiêu chuẩn đạo đức của người cán
bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 –
2003.....
Một số công trình khác đã đi sâu vào nghiên cứu giáo dục truyền thống, kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đào tạo, bước đầu đã đưa ra một số giải
pháp giáo dục truyền thống cho thanh niên, học sinh, sinh viên, như: “ Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ Phán, 1999; “ Tình cảm đạo đức và
giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay”, Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết
học, số 6-2000; “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2- 2001; “ Kết
hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo
quản lý” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4- 2001; “ Giáo dục
truyền thống cho thanh niên”, Lương Ngọc, Nxb Thanh niên, HN, 1992; “ Kết hợp
truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án tiến sỹ của Nguyễn Lương Bằng, 2001.
Vấn đề lối sống, đã có một số công trình đề cập đến, như: “ Lối sống xã hội chủ
nghĩa” của các tác giả Liên Xô cũ và cộng hoà dân chủ Đức ( sách dịch), Nxb Sự thật,
1982; “ Chủ nghĩa xã hội và nhân cách”, 2 tập, của các giả Liên Xô cũ (sách dịch), Nxb
Sách giáo khoa Mác- Lênin, HN, 1993; “ Con người- những ý kiến mới về một đề tài
cũ” của liên Xô cũ (sách dịch), Nxb Sự thật, 1987; “ Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn mực giá trị xã hội”, Nxb CTQG, 2001 do Huỳnh Khái Vinh chủ biên. Trong
cuốn sách này, các tác giả đã bàn một cách sâu sắc phạm trù “lối sống”. Tìm hiểu sự tác
động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống ở nước
ta trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; “ Bàn về lối sống
và nếp sống xã hội chủ nghĩa”, Nxb Văn hoá, 1985, do Trần Độ chủ biên. Trong đó,
phần thứ nhất của cuốn sách bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa. Phần hai, các
tác giả tập trung bàn về các giải pháp xây dựng lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đều ít nhiều đề cập đến
vấn đề lối sống và xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cũng như kế thừa và phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống vào xây dựng lối sống mới ở nước ta. Tuy nhiên, chưa có
một công trình nào trình bày một cách trực tiếp đến vai trò của các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích của luận văn
Từ việc phân tích sự ảnh hưởng của các giá trị đạo đức truyền thống đối với việc
xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay, tác giả đưa ra phương hướng
và một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở Việt Nam nói chung
và ở Nghệ An nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phân tích ảnh hưởng của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối
sống mới cho sinh viên ở một số trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu qủa
tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh
viên Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng, sự tác động của giá trị đạo đức truyền thống tới
việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề lối sống của thanh niên,
sinh viên là vấn đề phong phú nhưng phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu từ nhiều
góc độ, nhiều nhân tố tác động và nhiều khía cạnh khác nhau, trong phạm vi luận văn
này chúng tôi chỉ đề cập đến một số nhân tố cơ bản của các giá trị đạo đức truyền thống
tác động đến việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giá trị đạo đức
truyền thống, về lối sống và xây dựng lối sống mới. Đồng thời luận văn kế thừa có chọn
lọc những thành tựu của một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng
hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: so sánh, thống
kê, điều tra xã hội học....
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng rõ thêm bản chất và tầm quan trọng của các giá trị đạo đức
truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay.
- Chỉ ra sự tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối
sống mới cho sinh viên ở một số trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Từ đó, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới
cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên ở Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn
được bố cục thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Giá trị đạo đức truyền thống và sự ảnh hưởng
của nó tới việc xây dựng lối sống mới
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1. Giá trị đạo đức truyền thống
1.1.1. Giá trị
Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức
triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới bắt đầu hình thành như một khoa học độc
lập. Khái niệm “giá trị” trở thành trung tâm của giá trị học. Ngoài ra, nó còn được sử dụng
trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học...với
những nội dung rộng, hẹp khác nhau.
Xung quanh khái niệm “giá trị” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau do xuất phát
từ góc độ tiếp cận và nhằm những mục đích không giống nhau. Song, có thể thấy những
điểm chung được đề cập đến trong quan niệm về “giá trị”, đó là:
Thứ nhất, giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả
năng thoả mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự
phát triển của xã hội. Như vậy, việc khẳng định nội dung của giá trị đã bao hàm trong
nó sự phân biệt với các sự vật, hiện tượng mà ta gọi là “phản giá trị”, “vô giá trị”- tức là
những gì đi ngược lại sự phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xã hội.
Thứ hai, giá trị có tính lịch sử - khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất
đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người ,mà do yêu cầu của
từng thời đại lịch sử, trong đó có con người sống và hoạt động.
Thứ ba, giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể
trong quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của
chủ thể đối với sự vật, hiện tượng ấy.
Thứ tư, giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người, được xác
định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm tra bằng
thực tiễn. Thực tiễn “ vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách thể, vừa là tiêu
chuẩn chân lý về giá trị của khách thể” [50, tr 29]. Theo V.I.Lênin : “....toàn bộ thực tiễn
của con người,- thực tiễn này vừa với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý, vừa với tính cách
là kẻ xác định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với
con người, cần phải được bao hàm trong “định nghĩa”” [52, tr 364].
Sự đánh giá đúng đắn của một giá trị không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của
chủ thể đánh giá mà còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội của hoạt động của chủ thể theo
đuổi những giá trị nhất định.
Thứ năm, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là
cái mà con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của
mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở của các chuẩn
mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Nói cách khác, cách thức và
hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị, người ta dựa vào các
giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp
nhất. Giá trị là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người vì các nguyện vọng và mục
đích của cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc của nhân cách.
Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến, được coi như phương tiện cơ bản để tạo
nên sự liên kết, hợp tác của mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng.
Nói đến giá trị tức là “muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã
bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến
cái khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới” [99,tr 16].
Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau mà người ta
thường phân loại giá trị theo cách của riêng mình. ở cấp độ chung nhất, các giá trị được
chia thành: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thường được thể hiện một cách rõ nét trong kinh tế, nó quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc
biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn
hoá, nghệ thuật, phong tục tập quán... Từ đó, giá trị tinh thần được phân thành các loại
giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị. Giá
trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bản chất, quy luật của hiện thực
khách quan để ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt của mình. Giá trị thẩm mỹ
gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống
và trong nghệ thuật. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và
xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội.Những giá trị tinh thần ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống của nhân dân và chúng trở
thành những chuẩn mực để con người đánh giá, phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái
đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với xã hội, con người với
con người.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và
được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người
với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi
của đời sống xã hội.
Thực ra, sự phân chia giá trị như trên chỉ có ý nghĩa tương đối, vì các giá trị có
liên quan chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, quyền công dân là một giá trị chính trị nhưng
cũng mang giá trị đạo đức. Giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ có khác biệt nhau: giá trị
đạo đức có quan hệ trực tiếp với những lợi ích xã hội nên bản chất xã hội của nó bộc lộ
một cách trực tiếp và rõ nét hơn giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức là cơ sở của các chuẩn
mực điều tiết hành vi của con người còn các giá tri thẩm mỹ thoả mãn nhu cầu hưởng
thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần, giá trị đạo đức thể hiện
rõ rệt trong các chuẩn mực đạo đức, còn các giá trị thẩm mỹ thể hiện tập trung trong các
hình tượng nghệ thuật...Tuy nhiên, giữa chúng có sự thống nhất nhau, vì chúng có
chung nguồn gố