Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự
ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi thẻ ngân
hàng đã được sử dụng phổ biến và là một phần không thể thiếu trong cuộc
sống hàng ngày của đông đảo dân chúng trên thế giới thì tại thị trường Việt
Nam nó mới thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các ngân hàng thương
mại trong nước vài năm trở lại đây. Hướng tới đối tượng khách hàng cá
nhân, thẻ trở thành công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển hoạt động
ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng. Phát hành thẻ ghi nợ và triển khai hệ
thống ATM là lựa chọn của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai
đoạn ban đầu gia nhập thị trường thẻ, làm bàn đạp cho ngân hàng tiếp tục
triển khai hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
Cùng với nhịp phát triển sôi động trên thị trường, hàng ngày qua các
phương tiện thông tin, người dân được tiếp cận với nhiều thông tin về thẻ,
đặc biệt là những thông tin liên quan đến rủi ro phát sinh trong quá trình s ử
dụng thẻ. Theo thống kê của tổ chức thẻ quốc tế Visa, năm 2004, giá trị giả
mạo thẻ Visa của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong lĩnh vực phát
hành lên tới hơn 100.000 USD, tăng 34 % so với năm 2003, trong lĩnh vực
thanh toán thẻ là 381.000 USD. Tỷ lệ giả mạo trong phát hành và thanh toán
thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam thường xuyên cao hơn tỷ lệ
trung bình c ủa thế giới. Theo khuyến cáo của các tổ chức thẻ quốc tế, sau
khi chính phủ các nước trong khu vực như Thái Lan, Malayxia, Singapore .
áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh thẻ thì
các tổ chức tội phạm thẻ bắt đầu chuyển hướng sang các thị trường mới
trong khu vực trong đó có Việt Nam.
101 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2233 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động
kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự
ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi thẻ ngân
hàng đã được sử dụng phổ biến và là một phần không thể thiếu trong cuộc
sống hàng ngày của đông đảo dân chúng trên thế giới thì tại thị trường Việt
Nam nó mới thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các ngân hàng thương
mại trong nước vài năm trở lại đây. Hướng tới đối tượng khách hàng cá
nhân, thẻ trở thành công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển hoạt động
ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng. Phát hành thẻ ghi nợ và triển khai hệ
thống ATM là lựa chọn của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai
đoạn ban đầu gia nhập thị trường thẻ, làm bàn đạp cho ngân hàng tiếp tục
triển khai hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
Cùng với nhịp phát triển sôi động trên thị trường, hàng ngày qua các
phương tiện thông tin, người dân được tiếp cận với nhiều thông tin về thẻ,
đặc biệt là những thông tin liên quan đến rủi ro phát sinh trong quá trình sử
dụng thẻ. Theo thống kê của tổ chức thẻ quốc tế Visa, năm 2004, giá trị giả
mạo thẻ Visa của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong lĩnh vực phát
hành lên tới hơn 100.000 USD, tăng 34 % so với năm 2003, trong lĩnh vực
thanh toán thẻ là 381.000 USD. Tỷ lệ giả mạo trong phát hành và thanh toán
thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam thường xuyên cao hơn tỷ lệ
trung bình của thế giới. Theo khuyến cáo của các tổ chức thẻ quốc tế, sau
khi chính phủ các nước trong khu vực như Thái Lan, Malayxia, Singapore ...
áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh thẻ thì
các tổ chức tội phạm thẻ bắt đầu chuyển hướng sang các thị trường mới
trong khu vực trong đó có Việt Nam.
3
Tham gia hoạt động kinh doanh thẻ từ những ngày đầu tiên tại Việt
Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam luôn chú trọng phát triển sản
phẩm, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch
vụ, tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng. Doanh số phát hành, thanh toán và
sử dụng thẻ của ngân hàng Ngoại thương luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao,
chiếm hơn 50% doanh số trên thị trường. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, ngân hàng Ngoại thương cũng phải đối mặt với những rủi ro trong quá
trinh kinh doanh thẻ, sự tấn công của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế khi
chúng chuyển hướng sang thị trường Việt nam. Từ năm 2002 đến nay, tình
hình giả mạo trong thanh toán và sử dụng thẻ tại ngân hàng Ngoại thương
đang tăng với tốc độ đáng ngại gây tổn thất cho ngân hàng, ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi ngân hàng cần có sự quan tâm thích đáng đến
hoạt động quản lý rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng mình.
Là một cán bộ phòng Quản lý thẻ ngân hàng Ngoại thương, qua thực
tiễn công tác và với mong muốn cho hoạt động kinh doanh thẻ của
NHNTVN ngày càng an toàn, hiệu quả tôi đã chọn đề tài : " Giải pháp hạn
chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam " làm đề tài nghiên cứu của mình.
1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ phân tích đánh giá thực trạng kết quả hoạt động kinh
doanh thẻ, thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam. Qua đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm
giảm thiểu tổn thất, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
thẻ tại ngân hàng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4
Đối tượng: Hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam giai đoạn 1995 - 2004.
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
tại ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp phương
pháp duy vật lịch sử, điều tra - phân tích - tổng hợp thống kê, kết hợp nghiên
cứu lý thuyết với phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh để phân tích,
chứng minh và đề xuất giải pháp.
4. Đóng góp của luận văn
Hệ thống hoá lý luận về thẻ ngân hàng và rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh thẻ của ngân hàng.
Đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động
kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
5. Kết cấu luận văn
Tên đề tài: " Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam "
Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Thẻ ngân hàng và rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân
hàng Ngoại thương Việt nam.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại
ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
5
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NHNTVN: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Vietcombank, VCB: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
NHPH: Ngân hàng phát hành thẻ
NHTT: Ngân hàng thanh toán thẻ
TCTQT: Tổ chức thẻ quốc tế
NHTM: Ngân hàng thương mại
Amex: American Express
ĐVCNT: Đơn vị chấp nhận thẻ.
6
CHƯƠNG 1: THẺ NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 Những vấn đề chung về thẻ ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về thẻ thanh toán
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự
ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ ngân hàng là
công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng
thanh toán hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi
của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ ngân hàng còn dùng để thực
hiện các dịch vụ thông qua hệ thống giao dịch tự động hay còn gọi là hệ
thống tự phục vụ ATM.
Theo “ Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng “ ban
hành kèm theo quyết định số 371/1999 QĐ/NHNN ngày 19/10 năm 1999
thì thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành cấp cho
khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và
chủ thẻ.
Thẻ ngân hàng luôn được làm bằng Plastic theo kích cỡ tiêu chuẩn
quốc tế và bao gồm các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo
của nhà phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên của chủ thẻ. Ngoài ra trên
thẻ còn có thể có tên công ty phát hành thẻ hoặc thêm một số yếu tố khác
theo tiêu chuẩn của Tổ chức hoặc tập đoàn thẻ quốc tế…..
7
* Phân loại: Có rất nhiều tiêu thức để phân loại thẻ nhưng chủ yếu
người ta sử dụng theo 2 phương thức chính: Phân loại theo công nghệ sản
xuất và phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ.
Nếu căn cứ theo công nghệ sản xuất chia thành 3 loại: thẻ in
nổi, thẻ từ và thẻ thông minh:
Thẻ in nổi ( Embossed Card ): Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được
khắc nổi các thông tin cần thiết. Ngày nay loại thẻ này ít được sử dụng vì
công nghệ in quá thô sơ, dễ bị làm giả mà kết hợp với các công nghệ mới
như thẻ từ, thẻ thông minh.
Thẻ từ: là loại thẻ mà các thông tin của chủ thẻ vừa được dập nổi ở
mặt trước của thẻ vừa được mã hoá trong băng từ ở mặt sau của thẻ. Các
thông tin này phải đảm bảo chính xác và khớp với nhau. Thẻ từ hiện nay
đang chiếm phần lớn trong tổng số lượng thẻ đang sử dụng trên thị trường.
Nhược điểm của thẻ từ là số lượng các thông tin được mã hoá không nhiều
và mang tính cố định nên không thể áp dụng kỹ thuật mã hoá an toàn và có
thể bị ăn cắp thông tin bằng các thiết bị nối với máy vi tính.
Thẻ thông minh ( Smart card ): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ, có đặc
tính bảo mật và an toàn rất cao, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, gắn vào
thẻ một chip điện tử có cấu tạo như một máy tính hoàn hảo. Thông thường
một tấm thẻ thông minh được gắn chip điện tử để thay thế cho dải băng từ
sau thẻ. Cũng có trường hợp thẻ thông minh có cả Chip điện tử và băng từ.
Chip điện tử độc lập với thẻ và được gắn trên bề mặt của thẻ, về bản chất
gồm 2 loại chip: chip bộ nhớ và chip xử lý dữ liệu. Chip bộ nhớ lưu trữ toàn
bộ các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thanh toán thẻ trong mỗi lần
sử dụng còn chip xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xoá bỏ hoặc điều chỉnh
các thông tin trong bộ nhớ. Thẻ thông minh gắn chip xử lý dữ liệu có khả
8
năng vừa lưu trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng thời
lưu trữ cả số liệu về những lần giao dịch của chủ thẻ tại ĐVCNT. Tính năng
vượt trội này của thẻ thông minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân
hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và
thông tin của chủ thẻ cũng như việc cập nhật thông tin liên quan tới thẻ giờ
đây đã được thực hiện ngay tại ĐVCNT. Tuy nhiên, do sử dụng công nghệ
mới nên giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thanh toán thẻ này
cũng đắt nên sử dụng còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp
nhận thanh toán thẻ này mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ
chức thẻ quốc tế vẫn khuyến khích các ngân hàng thành viên phát hành và
thanh toán lại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi ro do giả mạo thẻ.
Nếu căn cứ vào tính chất thanh toán có thể chia thành thẻ tín
dụng ( Credit card ) và thẻ ghi nợ ( Debit card ).
Thẻ tín dụng ( Credit card ) là phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt cung cấp cho nguời sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Tại
thời điểm khách hàng thanh toán hàng hóa dịch vụ ngân hàng sẽ đứng ra tạm
ứng thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ và sau đó sẽ tiến hành
thu hồi khoản tiền này từ khách hàng sau một khoảng thời gian nhất định
theo thoả thuận giữa ngân hàng và chủ thẻ. Khoảng thời gian kể từ khi thẻ
đuợc dùng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho
ngân hàng có độ dài tuỳ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của từng tổ chức
thẻ khác nhau. Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn,
thời gian này sẽ trở thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn
lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy vậy nếu hết thời gian này mà chủ thẻ vẫn
chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán hết dư nợ cuối kỳ cho ngân hàng thì
chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí và lãi chậm trả trên số dư nợ còn lại.
9
Sau khi thanh toán hết dư nợ phát sinh trong kỳ, hạn mức tín dụng của chủ
thẻ sẽ được khôi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất tuần hoàn của thẻ
tín dụng
Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách
hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả
năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên các tiêu chí như: thu nhập, tình
hình chi tiêu, uy tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính, tài sản thế
chấp … của khách hàng. Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất
trình thẻ của mình tại các điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có chấp nhận thẻ
để thanh toán.
Ngoài các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế thông thường như Visa,
Master vàng, chuẩn để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các tổ chức
thẻ quốc tế còn đưa ra một sản phẩm thẻ tín dụng đặc biệt phục vụ những
khách hàng có thu nhập rất cao, có khả năng tài chính vững vàng và có mức
chi tiêu lớn. Đó là thẻ thanh toán ( charge card ). Khi sử dụng thẻ thanh toán
khách hàng được hưởng một hạn mức tín dụng đặc biệt cao hoặc không bị
chi phối bởi hạn mức tín dụng nhưng chủ thẻ sẽ phải thanh toán toàn bộ số
tiền phát sinh cho ngân hàng vào ngày đến hạn.
Thẻ ghi nợ ( debit card ): Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là
một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Nó cho phép khách hàng
tiếp cận với số dư tài khoản của mình qua hệ thống kết nối trực tuyến để
thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các ĐVCNT hoặc thực hiện các giao dịch
liên quan tới tài khoản tại các máy ATM. Mức chi tiêu của chủ thẻ phụ
thuộc chủ yếu vào số dư trong tài khoản. Ngân hàng giữ vai trò cung cấp
dịch vụ cho chủ thẻ và thu phí dịch vụ. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng
và khách hàng không diễn ra quá trình cho vay tín dụng, không có việc phân
10
loại khách hàng nên mọi khách hàng chỉ cần có tài khoản tại ngân hàng đều
có thể tiếp cận với sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng. Chính vì vậy về mức
độ có thể thay thể tiền mặt, thẻ ghi nợ chiếm ưu thế vượt trội so với thẻ tín
dụng.
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép
khách hàng có thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút
tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác nhau tại máy
ATM bao gồm: rút tiền, chuyển khoản, xem số dư tài khoản, in sao kê, xem
các thông tin quảng cáo….. Hệ thống ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ
gửi tiền vào tài khoản của mình ngay tại các máy ATM, đổi séc qua máy rút
tiền tự động, thực hiện nộp hồ sơ cho một khoản vay cũng như tự mình thực
hiện nhiều dịch vụ ngân hàng khác. Cùng với thẻ ATM, hệ thống ATM đã
cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài giờ làm việc,
ngoài trụ sở ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với
nhau tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực
hiện giao dịch tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay hai hệ thống ATM lớn
nhất trên thế giới là Cirrus của MasterCard và Plus của Visa, sẵn sàng cho
phép thẻ của ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một
mạng lưới rộng khắp toàn cầu.
Ngoài hai loại thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ nói trên, một hình thức thẻ
ngân hàng đang ngày càng trở nên phổ biến là thẻ liên kết. Thẻ liên kết là
sản phẩm của một ngân hàng hay tổ chức tài chính kết hợp với một bên thứ
ba và thông thường tên, nhãn hiệu thương mại hoặc logo của bên thứ ba này
cũng đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài những đặc điểm sẵn có của thẻ
ngân hàng thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn với khách hàng bởi
11
chính những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ thẻ Visa co-brand
do ngân hàng Standard Chartered và tập đoàn thời trang Espirit phát hành
mang lại cho chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như được chăm sóc
sắc đẹp miễn phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3
tháng đầu tiên, chương trình điểm thưởng tích luỹ theo lượng tiền thanh toán
bằng thẻ….
Nếu căn cứ vào phạm vi sử dụng của thẻ có thể chia thành thẻ
trong nước và thẻ quốc tế.
Thẻ trong nước là thẻ do các ngân hàng, tổ chức tín dụng phát hành sử
dụng thay thế tiền mặt để thanh toán hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt trong
phạm vi quốc gia. Thông thường đó là thẻ ghi nợ nội địa của các ngân hàng
thương mại phát hành sử dụng tại hệ thống máy ATM và mạng lưới các
ĐVCNT của ngân hàng phát hành và ngân hàng đại lý, ngân hàng liên kết
với ngân hàng phát hành đó trong một nước.
Thẻ quốc tế là thẻ mang thương hiệu của các tổ chức thẻ quốc tế do
các ngân hàng, tổ chức tín dụng làm đại lý phát hành. Thẻ quốc tế có thể
được sử dụng trên phạm vi trong nước và quốc tế, tại bất kỳ các ĐVCNT
hoặc máy ATM có mang biểu tượng chấp nhận thanh toán thẻ đó. Để phát
hành thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành thẻ phải đăng ký và được chấp nhận
làm thành viên của Tổ chức thẻ quốc tế, tuân thủ chặt chẽ các quy định trong
việc phát hành và thanh toán thẻ do Tổ chức thẻ quốc tế đó ban hành. Có 2
loại thẻ quốc tế là thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế.
1.1.2 Lịch sử phát triển thẻ ngân hàng:
Để có được các sản phẩm đa dạng như hiện nay, lĩnh vực thẻ ngân
hàng đã trải qua nhiều giai đoạn thử nghiệm và phát triển. Tuy nhiên, xét về
12
mặt thời gian, kinh doanh thẻ là một ngành kinh doanh tương đối mới mẻ, ra
đời và bắt đầu phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20 cho tới nay.
Thẻ ngân hàng được hình thành tại Mỹ từ thói quen cho khách hàng
mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ trên cơ sở uy tín của khách đối với cửa
hàng. Thông thường các chủ tiệm theo dõi khách hàng một cách riêng rẽ, ghi
rõ các khoản mà mỗi khách hàng sẽ phải thanh toán và chấp nhận cho khách
hàng trả tiền sau vì họ tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua.
Tuy nhiên vốn của các cửa hàng thường không đủ lớn, dần dần các chủ tiệm
nhận thấy mình không có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả tiền sau liên
tục như vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình
thành ý tưởng về sản phẩm thẻ. Với năng lực về tài chính, khả năng quay
vòng vốn và kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các tổ
chức ngân hàng tài chính có đủ khả năng cung cấp cho khách hàng những
khoản vay miễn lãi trong một thời gian nhất định.
Vào những năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần
đầu tiên cung cấp cho các khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán
trả chậm. Công ty này phát hành những tấm kim loại có chứa các thông tin
in nổi thực hiện hai chức năng:
Nhận diện và phân biệt khách hàng
Cung cấp và cập nhật dữ liệu về khách hàng, bao gồm các
thông tin về tài khoản và các giao dịch thực hiện.
Các tổ chức khác cũng nhận ra giá trị của loại hình dịch vụ nói trên và
chỉ trong một thời gian ngắn sau đó rất nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn
cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung cấp dịch vụ trả
chậm cho khách hàng của mình. Trong số đó, tập đoàn xăng dầu của Mỹ cho
13
ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên vào năm 1924 cho phép người dân sử dụng
thẻ này để mua xăng dầu tại các cửa hàng trên toàn quốc.
Tiếp theo các tổ chức cung cấp hàng hóa dịch vụ, các ngân hàng
nhanh chóng bước vào thị trường thẻ với mục tiêu nhanh chóng nhân rộng
hình thức thanh toán này trên cơ sở mối quan hệ sẵn có giữa các đơn vị cung
câp hàng hóa dịch vụ trên cả nước với hệ thống đại lý rộng khắp của ngân
hàng.Với tốc độ phát triển rất nhanh chỉ vài năm sau đó hơn 100 ngân hàng
trên nước Mỹ cùng thực hiện cung cấp dịch vụ thanh toán trả chậm, tiền thân
của thẻ tín dụng sau này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển sản phẩm quá
nhanh, các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính đã gặp những bài học
xương máu và buộc phải xem lại chiến lược kinh doanh của đơn vị mình.
Vào năm 1950, Diners Club phát hành tấm thẻ tín dụng đầu tiên được
làm bằng chất liệu Plastic. Sau này Frank NcNamara, người sáng lập ra
Diners Club kể lại là ông đã từng trải qua một trường hợp rất lúng túng khi
ông đi ăn tại một cửa hiệu ở New York nhưng quên mang theo ví. Chính
việc phải cam kết thanh toán sau đó đã gợi lên ý tưởng kinh doanh thẻ đối
với Frank NcNamara.
Sau Diners Club, vào năm 1958, công ty American Express cũng
tham gia vào thị trường thẻ ngân hàng và đã thiết lập thành công tên tuổi của
mình trong lĩnh vực mới mẻ này. Cũng giống như các đối thủ cạnh tranh,
American Express chú trọng phát triển thẻ trong lĩnh vực giải trí và du lịch,
hai lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Mỹ và châu Âu trong thời
kỳ sau chiến tranh thế giới.
Đến trước năm 1970, khái niệm thẻ tín dụng đã được mọi người biết
đến và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, ngân hàng Bank of
American chính thức trao quyền phát hành thẻ BankAmerican của mình cho
14
các ngân hàng khác thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, khởi đầu cho giai
đoạn tăng tốc trong phát triển dịch vụ thẻ. Người dân đi du lịch nhiều hơn
trên nước Mỹ và cả nước ngoài mà không còn lo lắng tới việc phải có sẵn
tiền để thanh toán. Thẻ tín dụng lúc này không chỉ mặc định dành cho những
đối tượng giàu có và nổi tiếng mà trở thành một phương tiện thanh toán
thông dụng. Thương hiệu BankAmerican với một loạt sản phẩm có ba màu
xanh, trắng, vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu
dùng. Bằng việc ký hợp đồng đại lý và cho các ngân hàng khác hưởng phí
thanh toán chuyển đổi, Bank of American đã nhanh chóng tăng được lượng
thẻ phát hành cũng như ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các ĐVCNT trên
khắp nước Mỹ và mở rộng ra thế giới. Tới năm 1977, thẻ của ngân hàng
Bank of American