Tệ nạn ma tuý là một hiểm hoạ lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, một dân
tộc nào không phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do buôn lậu ma tuý và nghiện
ma tuý gây ra cho đời sống kinh tế - xã hội. Tình hình tệ nạn ma tuý diễn biến rất phức tạp,
tiềm ẩn, khó lường, có xu hướng gia tăng về số người nghiện và các tội phạm về ma tuý,
tính chất hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động hơn. Ma tuý làm suy thoái
nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống gia đình, gây xói mòn đạo lý, làm gia tăng tội
phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn kiệt nguồn nhân lực, tài chính, huỷ hoại những tiềm
năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh tế xã hội, đem lại
ấm no hạnh phúc cho mọi người. Nghiêm trọng hơn, ma tuý là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến lây nhiễm đại dịch thế kỷ HIV/AIDS trên toàn cầu.
Do siêu lợi nhuận và lợi dụng tự do hoá thương mại, chính sách mở cửa thu hút đầu
tư của các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam, bọn tội phạm ma túy tiến hành mở
rộng phạm vi hoạt động sản xuất, buôn bán ma tuý kết hợp với rửa tiền thông qua buôn bán
ma tuý. Các nhóm vũ trang móc nối với bọn buôn lậu ma túy và khủng bố quốc tế để sản
xuất ma tuý làm nguồn tài chính phục vụ ý đồ chính trị và khủng bố quốc tế.
Năm 2006, Hiệp định AFTA về tự do hoá thương mại giữa các nước ASEAN có hiệu
lực, Việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt là từ năm 2010, khi Cộng đồng ASEAN xây dựng
nhiều thiết chế trong quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch con đường xuyên á, hành lang
kinh tế Đông Tây mở, việc đầu tư, liên doanh, liên kết sản xuất, buôn bán, dịch vụ giữa các
nước Đông Nam á cùng các nước trên thế giới sẽ diễn ra rất sôi động. Đây là thời cơ thuận
lợi để tội phạm ma tuý lợi dụng hoạt động, làm gia tăng tình hình buôn bán và sử dụng ma
tuý ở trong nước.
106 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4555 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người
sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma tuý là một hiểm hoạ lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, một dân
tộc nào không phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do buôn lậu ma tuý và nghiện
ma tuý gây ra cho đời sống kinh tế - xã hội. Tình hình tệ nạn ma tuý diễn biến rất phức tạp,
tiềm ẩn, khó lường, có xu hướng gia tăng về số người nghiện và các tội phạm về ma tuý,
tính chất hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động hơn. Ma tuý làm suy thoái
nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống gia đình, gây xói mòn đạo lý, làm gia tăng tội
phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn kiệt nguồn nhân lực, tài chính, huỷ hoại những tiềm
năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh tế xã hội, đem lại
ấm no hạnh phúc cho mọi người. Nghiêm trọng hơn, ma tuý là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến lây nhiễm đại dịch thế kỷ HIV/AIDS trên toàn cầu.
Do siêu lợi nhuận và lợi dụng tự do hoá thương mại, chính sách mở cửa thu hút đầu
tư của các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam, bọn tội phạm ma túy tiến hành mở
rộng phạm vi hoạt động sản xuất, buôn bán ma tuý kết hợp với rửa tiền thông qua buôn bán
ma tuý. Các nhóm vũ trang móc nối với bọn buôn lậu ma túy và khủng bố quốc tế để sản
xuất ma tuý làm nguồn tài chính phục vụ ý đồ chính trị và khủng bố quốc tế.
Năm 2006, Hiệp định AFTA về tự do hoá thương mại giữa các nước ASEAN có hiệu
lực, Việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt là từ năm 2010, khi Cộng đồng ASEAN xây dựng
nhiều thiết chế trong quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch… con đường xuyên á, hành lang
kinh tế Đông Tây mở, việc đầu tư, liên doanh, liên kết sản xuất, buôn bán, dịch vụ giữa các
nước Đông Nam á cùng các nước trên thế giới sẽ diễn ra rất sôi động. Đây là thời cơ thuận
lợi để tội phạm ma tuý lợi dụng hoạt động, làm gia tăng tình hình buôn bán và sử dụng ma
tuý ở trong nước.
Với diễn biến phức tạp của tệ nạn ma tuý ở các nước trong khu vực nói chung, ở Việt
Nam nói riêng, hàng năm số người nghiện ma tuý ở nước ta vẫn tăng bình quân 11%. Tính
đến hết tháng 12/2005, toàn quốc có khoảng 160.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý,
tăng hơn 50% so với năm 2000. Song song với những biện pháp quyết liệt chống tội phạm
buôn bán ma tuý, Nhà nước ta cũng đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện, giúp
cho những người sa vào con đường nghiện ngập có thể cắt cơn, phục hồi sức khoẻ, hành vi
và nhân cách để có thể tái hoà nhập cộng đồng. Công tác cai nghiện phục hồi tuy đạt được
một số kết quả bước đầu, nhưng về cơ bản tính hiệu quả và bền vững chưa cao, tỷ lệ tái
nghiện còn cao, có những nơi lên tới 80-90%. Trình độ văn hoá thấp, không có nghề nghiệp,
không có việc làm là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiện ma
tuý trong thanh thiếu niên.
Tạo việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục hồi là một trong
những biện pháp quan trọng có ý nghĩa cả về kinh tế và xã hội, nhằm giúp đối tượng trở về
cuộc sống bình thường, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tệ nạn ma tuý. Chủ
trương này thể hiện rõ trong các văn bản chỉ đạo của Đảng và Chính phủ như Chỉ thị 33-
CT/TƯ, Chỉ thị 52-CT/TƯ, Nghị quyết 06/CP của Chính phủ và gần đây nhất là Chỉ thị 21/CT-
TƯ...
Tuy nhiên, trên thực tế kết quả giải quyết việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi
được chữa trị, phục hồi còn nhiều hạn chế. Hàng năm, số đối tượng được tạo việc làm ở
cộng đồng chỉ chiếm khoảng 10% số đối tượng được chữa trị, phục hồi. Nguyên nhân của
tình trạng này ngoài những khó khăn khách quan của nền kinh tế thị trường còn do nhận
thức, trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể ở các cấp chưa cao, đặc biệt là chính quyền cấp
xã, cộng đồng, khu phố, thôn xóm ít quan tâm. Về phía bản thân đối tượng và gia đình họ
còn ỷ lại xã hội, không nỗ lực tìm kiếm việc làm. Mặt khác, Nhà nước ta cũng chưa có cơ
chế chính sách phù hợp để khuyến khích, huy động nhiều thành phần kinh tế - xã hội tham
gia giải quyết việc làm cho đối tượng.
Do vậy, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, tạo việc làm, có thu nhập ổn định
không những là một nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện mà còn là yêu cầu thiết
yếu, tạo điều kiện cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng, phòng chống tái nghiện có hiệu
quả. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết ở nước ta hiện nay là cần có sự nghiên cứu một
cách cơ bản, có hệ thống vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý để
giúp họ thực sự tái hoà nhập cộng đồng và có cuộc sống yên ổn, trở thành người có ích cho
xã hội.
Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ tạo
việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay” làm luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới vấn
đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
Nhóm việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường:
- Đề tài cấp nhà nước 70A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt
Nam”, Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Đề tài cấp nhà nước KX-04-04: “Luận cứ khoa học cho chính sách giải quyết việc
làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động
TB và XH, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp Nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ
cấu xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do Tiến sỹ
Nguyễn Đình Tấn - Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, Luận án tiến sĩ kinh tế Trần Văn
Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sỹ Nguyễn Quang
Hiển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001 -2010” của Tiến sỹ Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Lao động xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”,
Luận án tiến sĩ kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
Nhóm tổ chức cai nghiện, quản lý sau cai nghiện và tạo việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý:
- “Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2010”, Uỷ ban Quốc gia
phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Hà Nội, 2002.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai” 02-X07 của Tiến sỹ Nguyễn Thành
Công, Hà Nội, 2003.
- Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng Chính phủ về cai nghiện
- phục hồi”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 2004.
- Báo cáo “Tổng kết công tác cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2005, phương
hướng nhiệm vụ thời kỳ 2006 - 2010”, Uỷ ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,
chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Hà Nội, 2006.
- Tài liệu “Giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu quả”, Cục
Phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 2007.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp
cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, các tài liệu mới chỉ đề cập rất ít tới vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung
nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố đó, tôi cũng tham khảo được nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những vấn đề đã được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo
sát thực tế ở một số địa phương, tôi có thể rút ra một số giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho
những người sau cai nghiện ma tuý ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tác động
tiêu cực của tệ nạn ma tuý tới đời sống kinh tế - xã hội, sự cần thiết phải tổ chức và quản lý
sau cai nghiện ma tuý và đề xuất giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai
nghiện ma túy ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về ma tuý, sử dụng ma tuý, cai
nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện ma tuý.
- Phân tích lý luận về hỗ trợ tạo việc làm cho đối tượng sau cai nghiện, góp phần hạn
chế và khắc phục tác động tiêu cực của tệ nạn ma tuý đối với kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các nhân tố tác động tới tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý,
trọng tâm là cách thức tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách của cơ quan quản lý nhà nước các
cấp trong hỗ trợ tạo việc làm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đề tài nghiên cứu về vấn đề hỗ trợ tạo việc làm cho những người
sau cai nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý sau cai nghiện trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: nghiên cứu thực trạng hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai
nghiện ma tuý từ năm 2001 đến năm 2007; đề xuất giải pháp cho những năm tiếp theo.
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu số liệu tổng hợp của các cơ quan quản lý có liên
quan về hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý và tiến hành khảo sát các mô
hình điểm ở một số địa phương trong cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Các lý thuyết về sai lệch xã hội, tệ nạn xã hội và tội phạm của E. Durkheim, W. Weber…và
vấn đề việc làm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các tài liệu nghiên cứu đã có, số liệu tổng hợp, thống kê và một số đề tài
nghiên cứu khoa học, điều tra khảo sát của Cục phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, của Văn phòng Thường trực phòng chống ma tuý - Bộ Công an,
cũng như các báo cáo tổng kết của địa phương, luận văn sử dụng phương pháp phân tích,
đánh giá, khái quát hoá đồng thời tiến hành một số cuộc điều tra khảo sát tại các trung tâm,
phường, xã nhằm mục đích minh hoạ.
6. ý nghĩa của luận văn
6.1. ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần phân tích và làm rõ những vấn đề cơ bản về ma tuý, sử dụng ma tuý,
cai nghiện ma tuý, nguyên nhân và tác hại của sử dụng ma tuý, tái nghiện, quản lý sau cai
nghiện, tái hoà nhập cộng đồng và hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý.
Hệ thống các giải pháp khả thi, hiệu quả cho người sau cai nghiện nhằm nhân rộng các mô
hình trong cả nước.
6.2. ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nghiên
cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn về tạo việc làm cho người sau cai nghiện,
phù hợp với điều kiện, và tình hình ở mỗi địa phương, góp phần đẩy mạnh công tác phòng
chống ma tuý, làm giảm tỷ lệ tái nghiện và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề Lý luận chung về ma tuý, việc làm
và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý
1.1 . Ma tuý và tác hại của nghiện ma tuý đối với kinh tế - xã hội
1.1.1 . Một số khái niệm liên quan đến ma tuý
* Ma tuý
Thuật ngữ “ma túy” xuất hiện ở Việt Nam ban đầu có ý nghĩa là chỉ thuốc phiện, về
sau còn được hiểu là các cây cần sa, cô ca và các loại thuốc tân dược gây nghiện khác. Có ý
kiến giải thích thuật ngữ “ma tuý” đó là vì các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái.
Nó chữa được một số bệnh có hiệu quả cao và làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh,
đồng thời làm cho con người mê mẩn, ngây ngất và tuý luý. Và như vậy, thuật ngữ “ma tuý”
được ghép từ các từ ma thuật, ma quái và tuý luý.
Chương trình kiểm soát ma tuý quốc tế của Liên Hợp quốc (UNDCP) năm 1991 đã
xác định: “Ma tuý là những chất độc có tính gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân
tạo khi xâm nhập và cơ thể con người thì có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí
tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào chúng gây nên những tổn thương cho từng cá nhân
và cộng đồng”; theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Ma tuý là bất kỳ chất gì mà khi đưa
vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”. Hay hiểu
ngắn gọn theo cách định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt: “Ma túy là tên gọi chung các chất
có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn và dùng quen thành nghiện”.
Từ các quan niệm nêu trên, có thể nêu khái niệm như sau: ma túy là những chất có
nguồn gốc từ tự nhiên hay nhân tạo và khi dùng không được chỉ dẫn có thể gây nghiện, làm
ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người cũng như sự ổn định và phát triển của cộng
đồng.
* Nghiện ma tuý
Khi dùng ma túy lần đầu, người ta thấy có cảm giác lâng lâng, dễ chịu và thèm muốn
dùng lại. Ma túy vào cơ thể vài lần sẽ tác động đến cơ quan cảm thụ, gây trạng thái quen
thuốc, nếu không dùng tiếp sẽ rất khó chịu, đau đớn, vật vã…, thèm muốn được dùng lại và
trở nên nghiện ma tuý. Do đó, nghiện ma tuý, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đó là tình trạng
một bộ phận trong xã hội gồm những người có thói quen dùng các chất ma tuý. Còn theo
nghĩa hẹp thì nghiện ma túy là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các chất ma tuý, làm
cho con người ta không thể quên và từ bỏ được ma tuý.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về “nghiện ma tuý”, nhưng chưa có một
khái niệm đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) “Nghiện ma
tuý là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính có hại cho cá nhân và xã hội do dùng lặp lại
một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp” [64, tr.4].
Theo định nghĩa mới đây của tổ chức DAYTOP quốc tế: “nghiện ma tuý là tình trạng
rối loạn cơ thể con người về các mặt sinh lý, tâm lý, nhận thức và hành vi do người đó sử
dụng lặp đi lặp lại một hoặc nhiều loại ma tuý từ tự nhiên hay tổng hợp”
* Người nghiện ma tuý
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: người nghiện ma túy là người sử dụng chất
ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần dưới các hình thức khác nhau như hút, hít, tiêm
chích và bị lệ thuộc vào các chất này. Từ khái niệm nghiện ma túy có thể rút ra cách hiểu về
người nghiện ma tuý như sau: người nghiện ma túy là người bị lệ thuộc đối với các chất ma
túy và không thể quên hay từ bỏ được ma tuý. Nếu ngừng sử dụng thì người nghiện sẽ xuất
hiện hội chứng cai.
Như vậy, có thể hiểu người nghiện ma túy theo các cách định nghĩa khác nhau,
nhưng nó có mấy điểm cơ bản là người nghiện ma tuý là người sử dụng lặp lại nhiều lần
một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp và bị lệ thuộc vào nó, không thể quên hay từ bỏ được
nó.
* Cai nghiện ma tuý
Với những hậu quả, tác hại mà ma túy gây ra cho người nghiện và gia đình, xã hội…
thì tất yếu phải có hoạt động cai nghiện ma tuý, đó là biện pháp giúp người nghiện ma tuý
thông qua chữa trị để từ bỏ ma tuý, phục hồi sức khoẻ tinh thần và tái hoà nhập cộng đồng.
Thực chất “cai nghiện ma tuý” là quá trình giải quyết sự rối loạn ba yếu tố của người nghiện
(trạng thái sinh lý, tâm lý, nhận thức và hành vi).
Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: cai nghiện là một biện pháp tổng hợp gồm các tác
động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức…nhằm điều trị giúp người nghiện ma túy
cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức khoẻ và tái hoà nhập xã hội.
* Tái nghiện ma tuý
Quá trình nghiện ma tuý đã tạo cho người nghiện có phản xạ cực nhạy với ma tuý,
cho nên mặc dù đã cắt cơn rồi nhưng trong phạm vi 60 tháng hễ cứ nhìn thấy ma tuý, ngửi
thấy hơi người nghiện, tiếp xúc với người nghiện, thậm chí nói đến tên loạn ma tuý quen
dùng, là cơn thèm khát ma tuý lại bùng lên dữ dội, khó có thể kiềm hãm được. Vì vậy, khi
ra khỏi các trung tâm cai nghiện, người cai trở lại sống với gia đình và cộng đồng, chịu sự
ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội còn chưa trong sạch ma tuý dẫn đến khả năng tái
sử dụng ma túy là rất cao. Việc tái sử dụng ma tuý chính là tái nghiện ma tuý và theo
PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì:
Tái nghiện được hiểu là một đối tượng nghiện ma tuý đã được gia đình, chính
quyền, các đoàn thể tại địa phương giúp đỡ, giáo dục, chữa trị cai nghiện để trở lại
cuộc sống bình thường trong xã hội. Thế nhưng vì một lý do nào đó họ đã không
kiềm chế được những ham muốn cá nhân, những suy nghĩ lệch lạc nên lại tiếp tục sử
dụng các loại chất ma tuý, người ta gọi trường hợp này là tái nghiện [66, tr.201].
“Tái nghiện được xem như một quá trình, một loạt kích thích không tốt và cuối cùng
dẫn đến việc dùng trở lại các chất ma tuý”.
Ranh giới giữa tái sử dụng ma tuý (tái nghiện) và dứt khoát đoạn tuyệt với ma túy là
rất mong manh. Chính vì vậy, công việc phòng, chống tái nghiện khi người cai hoà nhập
cộng đồng là một việc làm tất yếu phải được thực hiện.
1.1.2 . Đặc điểm người nghiện ma tuý và tái nghiện ma tuý
Người nghiện ma túy là người đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào ma tuý, dưới tác dụng của
ma tuý toàn bộ các moocphin nội sinh cho cơ thể con người bình thường đã bị tiêu diệt và
thay thế bằng mooc phin ngoại sinh (là các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp) khi
được đưa vào cơ thể con người nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của
người đó.
Trong quá trình cai nghiện bắt buộc, cắt cơn, chữa bệnh và phục hồi sức khoẻ và
trong thời gian sau cai, nhiều người có sức khoẻ nhưng thiếu ý chí vươn lên làm lại cuộc
đời. Họ không có hứng thú học văn hoá và cũng không thích học nghề và đó là trở ngại
không nhỏ cho công tác giáo dục dạy nghề và tạo việc làm. Phần lớn đối tượng có học lực
thấp, số người này chỉ có thể làm lao động phổ thông và thu nhập thấp.
Sức khoẻ của người sau cai vẫn là một trong những trở ngại lớn cho bước tái hoà
nhập cộng đồng. Một tỷ lệ cao lao động là người sau cai không đủ sức khoẻ để đáp ứng yêu
cầu làm việc của sản xuất.
Số người nghiện ma túy lười lao động chiếm tỷ lệ cao trong học viên và người sau
cai. Có nguyên nhân xã hội sâu xa: những người nghiện ma túy từng tự tách mình khỏi lao
động, trở thành những kẻ ăn bám, nhiều người trong số họ mất lòng tin nơi chính mình, mất
thăng bằng dễ rơi vào trầm cảm do bị người thân xa lánh, khinh thị. Vòng tròn không lối
thoát ấy vây chặt lấy họ. Việc từng bước trở lại với đời thường, sử dụng sức lao động cơ bắp
và kỹ năng và những gì học trong những năm ở trung tâm dể tự nuôi sống mình là một quá
trình thử thách lớn mang yếu tố quyết định.
Sức ỳ và tình trạng rối loạn tâm lý là nghiêm trọng, kể cả rối loạn sinh lý giới tính,
kéo dài trong nhiều năm do bị cách li với bên ngoài. Do đó, nhiều người vẫn chưa đủ quyết
tâm dứt khoát đoạn tuyệt với chất gây nghiện, vì vậy cuộc vật lộn nội tâm gay gắt dẫn đến
rối loạn tâm lý, tạo sức ỳ lớn, khó có thể tập trung trí lực và thể lực vào lao động sản xuất
trước mắt và trong một thời gian nhất định tiếp theo, nếu không có những cú hích mạnh.
Nhiều người sau cai do hiểu rất rõ trình độ và năng lực nghề nghiệp hạn chế, kém cỏi
của mình, tỏ ra thiếu tự tin trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng mới bắt đầu này. Không
ít người sau cai băn khoăn, lo lắng trong quá trình tái hoà nhập này là sức khoẻ kém, thiếu,
thậm chí mất sự tự tin nơi chính mình - khi bước vào một giai đoạn mới rất quan trọng để có
thể khẳng địn