Sau hơn 10 năm đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh để hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới. Đóng góp vào sự nghiệp phát triển đó, chúng ta không thể bỏ qua vai trò to lớn của các Ngân hàng thương mại với chức năng là trung gian chu chuyển vốn, là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các Ngân hàng thương mại thường gặp rất nhiều rủi ro ảnh hưởng đến phương án sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi có sự tham gia cạnh tranh mạnh mẽ của các TCTD trong và ngoài nước. Các rủi ro này thường xảy ra dưới nhiều hình thức, gây nên những tổn thất và mất mát mà Ngân hàng phải gánh chịu. Một trong những biểu hiện của rủi ro gây nên tổn thất cho Ngân hàng đó là nợ tồn đọng (nợ xấu).
Liên tiếp trong những năm qua đã xảy ra nhiều vụ đổ bể tín dụng. Một trong những nguyên nhân chính của các vụ án này là do một số Ngân hàng thương mại đã không thực hiện đầy đủ cơ chế bảo đảm tiền vay, dẫn tới tình trạng đánh giá sai lệch giá trị bảo đảm. Bên cạnh đó, một số Ngân hàng còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản bảo đảm, dẫn đến tình trạng tài sản bảo đảm tiền vay dưới hình thức cầm cố chỉ tồn tại trên giấy tờ, còn tài sản đó vẫn do khách hàng nắm giữ và sử dụng không được pháp luật cho phép, thậm chí có TCTD còn cho vay có bảo đảm bằng cả những tài sản không đủ điều kiện quy định. Sau những tổn thất đó, các Ngân hàng lại ra sức thắt chặt các điều kiện cho vay của mình. Đối với hoạt động cho vay, cả việc nới lỏng lẫn thắt chặt quy định về bảo đảm tiền vay đều không có hiệu quả đối với Ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn vốn, lẫn việc nâng cao thu nhập từ hoạt động này. Vậy làm thế nào để có thể điều hành công tác bảo đảm tiền vay một cách có hiệu quả trên cả bình diện vĩ mô lẫn hoạt động của Ngân hàng thương mại?
51 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2315 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (doanh nghiệp vừa và nhỏ) tại Sở giao dịch I ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Sau hơn 10 năm đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh để hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới. Đóng góp vào sự nghiệp phát triển đó, chúng ta không thể bỏ qua vai trò to lớn của các Ngân hàng thương mại với chức năng là trung gian chu chuyển vốn, là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các Ngân hàng thương mại thường gặp rất nhiều rủi ro ảnh hưởng đến phương án sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi có sự tham gia cạnh tranh mạnh mẽ của các TCTD trong và ngoài nước. Các rủi ro này thường xảy ra dưới nhiều hình thức, gây nên những tổn thất và mất mát mà Ngân hàng phải gánh chịu. Một trong những biểu hiện của rủi ro gây nên tổn thất cho Ngân hàng đó là nợ tồn đọng (nợ xấu).
Liên tiếp trong những năm qua đã xảy ra nhiều vụ đổ bể tín dụng. Một trong những nguyên nhân chính của các vụ án này là do một số Ngân hàng thương mại đã không thực hiện đầy đủ cơ chế bảo đảm tiền vay, dẫn tới tình trạng đánh giá sai lệch giá trị bảo đảm. Bên cạnh đó, một số Ngân hàng còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản bảo đảm, dẫn đến tình trạng tài sản bảo đảm tiền vay dưới hình thức cầm cố chỉ tồn tại trên giấy tờ, còn tài sản đó vẫn do khách hàng nắm giữ và sử dụng không được pháp luật cho phép, thậm chí có TCTD còn cho vay có bảo đảm bằng cả những tài sản không đủ điều kiện quy định. Sau những tổn thất đó, các Ngân hàng lại ra sức thắt chặt các điều kiện cho vay của mình. Đối với hoạt động cho vay, cả việc nới lỏng lẫn thắt chặt quy định về bảo đảm tiền vay đều không có hiệu quả đối với Ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn vốn, lẫn việc nâng cao thu nhập từ hoạt động này. Vậy làm thế nào để có thể điều hành công tác bảo đảm tiền vay một cách có hiệu quả trên cả bình diện vĩ mô lẫn hoạt động của Ngân hàng thương mại?
Trong quá trình thực tập tại chi nhánh SGD I - NHCTVN em nhận thấy đã có nhiều vướng mắc cần quan tâm, xem xét và sớm tìm ra giải pháp để bảo đảm tiền vay thực sự là một dấu hiệu đánh giá độ an toàn cũng như khả năng định lợi của khoản cho vay ngay từ giai đoạn lựa chọn khách hàng vay. Do đó em đã lựa chọn đề tài bản luận văn tốt nghiệp của mình là:
“Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Doanh nghiệp vừa và nhỏ) tại SGD I – NHCTVN”.
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện bản luận văn này, em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ rất tận tình của các cô chú, anh chị cán bộ phòng Khách hàng 1 và phòng Tổng hợp tiếp thị SGD I cùng với sự hướng dẫn của Thầy giáo, PGS. TS Lê Văn Hưng, đến nay em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Với những hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên cũng như thời gian thâm nhập thực tế chưa nhiều nên đề tài của em sẽ không tránh khỏi thiếu sót về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Em rất mong thầy cô có ý kiến nhận xét và chỉ bảo để em được tiếp tục hoàn thiện bản luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Nguyên tắc cho vay của NHTM
Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng.
Nguyên tắc cho vay gồm 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kỳ hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho Ngân hàng, nếu không Ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, Ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Nguyên tắc này còn là phương châm hoạt động của các NHTM. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ, đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Khi thực hiện nguyên tắc này, các NHTM yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được Ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo: Tài sản này có thể là hình thành từ vốn vay Ngân hàng, là tài sản của người đi vay hoặc còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
Các hình thức cho vay của NHTM
Nếu phân theo thời hạn: Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thời gian dưới 1 năm, cho vay trung hạn từ 1-5 năm và từ 5 năm trở nên là cho vay dài hạn.
- Nếu phân theo tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm các khoản cho vay cho phép Ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất( từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
- Nếu phân theo số lần vay: Cho vay từng lần và cho vay có hạn mức.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các TCTD khác. Việc cho vay này phải thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng và Quy chế đồng tài trợ của các TCTD do Thống đốc NHNN ban hành.
Ngoài ra, còn một số hình thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với các điều kiện hoạt động kinh doanh của từng TCTD và đặc điểm của khách hàng.
1.2.Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.2.1. Tín dụng ngoài quốc doanh đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong đó lực lượng quan trọng nhất là khu vực kinh tế tư nhân có thể được hiểu đơn giản là sở hữu tư nhân chứ không phải là sở hữu nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường sở hữu nhà nước và tư nhân cùng tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên việc phân vùng khu vực là tương đối khó. Theo quy định của luật pháp hiện hành, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh, HTX, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
Các NHTM luôn tìm cho mình những cách khác nhau để mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh và cuối cùng là tăng lợi nhuận. Chính vì vậy khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời, các NHTM không ngần ngại lao vào thị trường các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Đây là khu vực kinh tế khá năng động, nhạy bén với thị trường, chịu khó tìm tòi, cải tiến công nghệ. Với một mạng lưới các doanh nghiệp vô cùng lớn từ thành thị đến nông thôn thì có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận lớn nếu biết tận dụng.
Tuy nhiên có thể nói đây là khu vực kinh tế khó kiếm soát, vốn tự có thấp, uy tín chưa cao chính vì vậy chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn mà nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chính vì vậy đòi hỏi Ngân hàng cần phải sáng suốt tỉnh táo, khi cho vay ngoài quốc doanh để đảm bảo an toàn cho mình mà vẫn có lãi.
Sự phát triển của nền kinh tế ngoài quốc doanh, bên cạnh vai trò huy động vốn cho bản thân, chẳng những thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, mà thông qua nó, thúc đẩy hệ thống Ngân hàng đổi mới và hoàn thiện các chính sách tín dụng, thanh toán và ngoại hối.
1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Như đã nói ở trên, đây là khu vực kinh tế thường có quy mô nhỏ, vốn tự có thấp. Chính vì vậy mà việc tiếp cận được với vốn vay của Ngân hàng sẽ giúp rất nhiều cho các doanh nghiệp này làm ăn hiệu quả hơn. Đôi khi để áp dụng một công nghệ, dây chuyền sản xuất mới để có thể theo kịp những đòi hỏi, những nhu cầu của thị trường thì cần phải có vốn. Nhất là khi nhu cầu về vốn đang trở nên bức bách thì tín dụng Ngân hàng chính là sự lựa chọn tốt nhất cho doanh nghiệp.
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng bổ xung kịp thời vốn lưu động và vốn cố định thiếu hụt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Tín dụng Ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn để có thể tiến hành cải tiến kỹ thuật hay đưa vào sản xuất những sản phẩm mới mà các đối thủ cạnh tranh chưa có. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tín dụng Ngân hàng sẽ thực hiện vai trò quan trọng là đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp mà các nguồn khác không thể hoặc đáp ứng không đủ. Điều đó giúp doanh nghiệp lăm ăn hiệu quả hơn, nâng cao uy tín trên thương trường.
Thứ hai, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn đi đầu trong việc tạo ra sản phẩm mới, thâm nhập vào những thị trường mới... Mà những điều này đòi hỏi phải có vốn và uy tín thì mới bảo đảm được sự thành công. Chính vì vậy đôi khi có được uy tín của một Ngân hàng bảo lãnh cho mình thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều. Các đối tác tin tưởng, các chi phí cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đầy đủ đó có thể là một phần của thành công. Khi tiếp cận với vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tạo được cho mình một uy tín nhất định trên thương trường. Trong quá trình hoạt động của mình thì các dịch vụ mà Ngân hàng mang lại sẽ tiện lợi và tiết kiệm cho doanh nghiệp rất nhiều.
Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng còn góp phần tạo môi trường kinh tế ổn định cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Do đó có thể nói tín dụng Ngân hàng sẽ góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp.
2. BẢO ĐẢM TIỀN VAY (BĐTV) TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM
Khái niệm BĐTV
Bảo đảm tiền vay là việc Ngân hàng áp dụng mọi biện pháp đối với khách hàng để khoản vay có thể trở về với Ngân hàng một cách an toàn và có lợi. Như vậy, để có thể bảo đảm cho khoản tiền vay của mình, Ngân hàng phải sử dụng nhiều biện pháp. Có thể kể đến các biện pháp được thực hiện khi lựa chọn khách hàng vay, các biện pháp Ngân hàng áp dụng trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay và các biện pháp được tiến hành trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn.
Khách hàng có thể đến với Ngân hàng do ý định vay vốn nảy sinh từ bản thân nhu cầu của họ hoặc do trong quá trình tiếp xúc, các cán bộ tín dụng đã thuyết phục được khách hàng nộp hồ sơ xin vay. Nhưng cho dù là khách hàng mà Ngân hàng lần đầu biết đến hay là do cán bộ tín dụng tìm hiểu, thì việc lựa chọn khách hàng vẫn là khâu không thể thiếu. Ngân hàng có thể đưa ra các tiêu chí để lựa chọn khách hàng như: năng lực của khách hàng (kể cả năng lực tài chính và phi tài chính), phương án sử dụng vốn vay, nguồn tài trợ và mức độ sẵn sàng bảo đảm cho các khoản vay (cả bằng tài sản và bằng dòng tiền trong tương lai). Những biệp pháp bảo đảm tiền vay trong giai đoạn này có thể bao gồm việc thẩm định khách hàng, thẩm định dự án vay vốn và xác định những yếu tố liên quan đến tài sản được sử dụng là tài sản bảo đảm (nếu có).
Thông thường, khi khoản vay được giải ngân, Ngân hàng không hoàn toàn để khách hàng tự do sử dụng vốn vay mà không có sự kiểm soát của nhân viên ngân hàng. Trong giai đoạn này, các biệp pháp mà Ngân hàng tiến hành để bảo đảm rằng các khoản cho vay của mình vẫn đang được sử dụng an toàn và sinh lợi là thường xuyên kiểm tra tiến độ sử dụng vốn vay. Phòng khi khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hay vốn vay được sử dụng không có khả năng sinh lời( tức là thấy được những dấu hiệu của rủi ro), Ngân hàng có thể đưa ra những biện pháp đưa khoản vay về đúng hướng mà Ngân hàng mong muốn.
Nợ quá hạn là yếu tố mà không một Ngân hàng nào mong muốn gánh chịu, thế nhưng như đã nói, rủi ro là yếu tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, thậm chí nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Vì vậy, khi phát sinh nợ quá hạn, Ngân hàng cũng phải tiến hành những biệp pháp để thu hồi nợ, hạn chế những tổn thất do khoản vay đem lại, hay phần nào bảo đảm an toàn cho các khoản vay đó.
Như vậy, nói đến bảo đảm tiền vay là nói đến rất nhiều biện pháp, bảo đảm tiền vay tồn tại trong bất kỳ khâu nào trong quá trình cho vay, vì thế cho nên khi cung ứng một khoản vay, Ngân hàng không nên coi nhẹ bất kỳ một biện pháp nào để bảo đảm tiền vay. Phương châm kinh doanh của người Nhật có câu “ làm đúng ngay từ đầu” nghĩa là nếu ngay từ lúc bắt đầu kinh doanh (với Ngân hàng là một khoản vay), việc xác định đúng hướng, làm tốt những việc cần làm (với Ngân hàng là lựa chọn đối tượng cho vay) có thể giúp nhà kinh doanh hạn chế đến mức tối đa rủi ro có thể phát sinh. Và theo đó, khi có bất trắc xảy ra ngoài dự kiến thì họ vẫn có thể chủ động đối phó với tình huống mới chứ không phải quan tâm đến việc sửa chữa sai lầm nữa. Chính vì lẽ đó, những phần tiếp theo của đề tài này em sẽ chỉ tập trung vào các biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi cho vay.
Thực chất đó là những biệp pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản vay. Có quan điểm cho rằng: Bảo đảm tiền vay chỉ là việc yêu cầu khách hàng vay có tài sản hữu hình để đối ứng với món vay của mình. Song trên thực tế đã chứng minh một khoản vay nếu chỉ được đảm bảo bằng tài sản hữu hình thì đó vẫn chưa phải là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lý do nào đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản.
Vì vậy, bảo đảm tiền vay phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ là tài sản có giá trị thị trường lớn hơn khoản vay đó, mà hơn cả, uy tín, tiềm lực tài chính, tính khả thi của dự án chính là đòi hỏi chính đáng nhất trong thực hiện bảo đảm tiền vay.
Như vậy, “ bảo đảm tiền vay là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay đối với các tổ chức tín dụng khi cho vay. Khi cho vay vốn, để bảo đảm bên vay phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, các Tổ chức tín dụng được quyền yêu cầu người vay vốn phải cầm cố, thế chấp tài sản của mình hoặc người thứ ba bảo lãnh theo quy định của pháp luật.”
Nguyên tắc bảo đảm tiền vay
+ TCTD có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp TCTD nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ thị của Chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này được Chính phủ xử lý.
+ Khách hàng vay được TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay TCTD phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
+ TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
+ Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Các hình thức bảo đảm tiền vay
2.3.1. Hình thức bảo đảm bằng tài sản
Là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản đã cho khách hàng vay.
2.3.1.1. Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của Ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho Ngân hàng trong thời gian cam kết( thường là thời gian nhận tài trợ).
Thế chấp là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho Ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
* Các tài sản cầm cố, thế chấp phải hội tụ đủ các điều kiện sau:
- Thuộc sở hữu của khách hàng vay
Được phép giao dịch
Không có tranh chấp
2.3.1.2. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh vay vốn của Ngân hàng là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thể hoàn trả được nợ cho bên nhận bảo lãnh. Để có thể được bảo lãnh, người bảo lãnh và người được bảo lãnh cần có quan hệ tín nhiệm với nhau.
Điều kiện tài sản được phép bảo lãnh cũng tương tự như đối với tài sản cầm cố, thế chấp.
TCTD có quyền lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản (gọi là bên bảo lãnh) để bảo lãnh cho khách hàng vay. Bên bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự đối với bên bảo lãnh là pháp nhân, có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự đối với bên bảo lãnh là cá nhân.
- Có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh.
2.3.1.3. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính những khoản vay đó đối với TCTD. Thực chất đây cũng là hình thức bảo đảm bằng cầm cố hay thế chấp. Nhưng khác với hai hình trên là tài sản được hình thành từ vốn vay là tài sản chưa có thật, mà phải qua quá trình sử dụng vốn, tài sản đó được dần hình thành. Trong thời gian từ lúc ký hợp đồng tín dụng cho đến khi hình thành tài sản được tài trợ bằng vốn vay, hình thức bảo đảm đối với khoản tiền vay này là uy tín của khách hàng vay. Chỉ khi, tài sản được hình thành, những tài sản này mới bắt đầu trở thành hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Hình thức bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thường được các TCTD áp dụng đối với những khách hàng truyền thống, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Việc cho vay này có thể dưới 3 dạng:
+ TCTD chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
+ TCTD Nhà nước thực hiện cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tài chính.
+ TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội.
Sự cần thiết hoàn thiện bảo đảm đối với các khoản vay của Ngân hàng
2.4.1. Rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng dẫn đến phải có BĐTV
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được lãi hoặc gốc hoặc cả hai. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng chủ yếu là : Chu kỳ suy thoái kinh tế; sự quản lý yếu kém; tình hình chính trị bất ổn định; sự đổ vỡ của đối tác; sản phẩm và công nghệ lạc hậu của doanh nghiệp; thiếu vốn; yếu tố cạnh tranh; sự bất ổn của dân chúng hay sự phản đối của dân chúng đối với công ty làm mất khả năng trả nợ của người đi vay.
Ngân hàng cũng không khác gì bất kỳ ngành kinh doanh nào, có thể gặp rủi ro, có thể mất tiền vốn. Hơn nữa Ngân hàng là một ngành nhạy cảm, hoạt động của Ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại hình rủi ro đặc biệt là rủi ro tín dụng.
Cho vay là hoạt động của Ngân hàng phải gánh chịu nhiều rủi ro nhất, bởi vì:
Thứ nhất, các chủ thể có quan hệ vay vốn Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Thị trường hiện nay đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh nhưng chính nó cũng làm cho các doanh nghiệp gặp phải nhiều yếu tố đe doạ. Môi trường kinh doanh nhạy cảm cao, sự không thích ứng lập tức sẽ phải tuân theo quy luật đào thải của thị trường. Tí