Luận văn Giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội

Sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Ngày nay, các hoạt động sản xuất kinh doanh, các mối quan hệ kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà lan rộng trên phạm vi toàn Thế giới. Các hợp đồng kinh tế ngày càng được phát triển về quy mô, giá trị các hợp đồng ngày càng lớn, đòi hỏi yếu tố kỹ thuật cao. Các bên đối tác không biết rõ thông tin về nhau và không có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Do đó đòi hỏi cần có một tổ chức có năng lực tài chính mạnh, có uy tín cao đứng ra làm trung gian đảm bảo quyền lợi của các bên đối tác, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó. Như vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ bảo lãnh cũng ra đời và phát triển như một hệ quả tất yếu khách quan. Năm 1995, lần đầu tiên Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đưa nghiệp vụ này vào hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế và đa dạng hóa loại hình hoạt động của ngân hàng, thỏa mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng. Trong những năm qua, quy trình nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Với sự cần thiết của nghiệp vụ bảo lãnh, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, em chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: - Chương I: Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thương mại. - Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. - Chương III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT thành phố Hà Nội.

doc88 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1859 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Ngày nay, các hoạt động sản xuất kinh doanh, các mối quan hệ kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà lan rộng trên phạm vi toàn Thế giới. Các hợp đồng kinh tế ngày càng được phát triển về quy mô, giá trị các hợp đồng ngày càng lớn, đòi hỏi yếu tố kỹ thuật cao. Các bên đối tác không biết rõ thông tin về nhau và không có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Do đó đòi hỏi cần có một tổ chức có năng lực tài chính mạnh, có uy tín cao đứng ra làm trung gian đảm bảo quyền lợi của các bên đối tác, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó. Như vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ bảo lãnh cũng ra đời và phát triển như một hệ quả tất yếu khách quan. Năm 1995, lần đầu tiên Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đưa nghiệp vụ này vào hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế và đa dạng hóa loại hình hoạt động của ngân hàng, thỏa mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng. Trong những năm qua, quy trình nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Với sự cần thiết của nghiệp vụ bảo lãnh, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, em chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: - Chương I: Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thương mại. - Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. - Chương III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT thành phố Hà Nội. Chương I Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng thương mại I. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1. Khái niệm, chức năng và vai trò của Ngân hàng thương mại. 1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại. Để đưa ra định nghĩa về Ngân hàng thương mại phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Tiền tệ là một công cụ vô song nhưng nó lại thụ động nên phải có “ Bàn tay điêu luyện của Ngân hàng “ để sử dụng nó thì tiền tệ mới đem lại kết quả cho nền kinh tế. Vậy ngân hàng là gì ? Trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về Ngân hàng. - Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “ Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của các công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác rồi dùng nó cho các nghiệp vụ chiết khấu, về tín dụng, về tài chính”. - Tại Bỉ: “ Ngân hàng là một xí nghiệp nhận tiền của công chúng một cách thường xuyên để dùng vào các nghiệp vụ ngân hàng, tín dụng, đầu tư”. - Hiện nay, theo luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. 1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại Có thể nói Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một Ngân hàng thương mại đa năng ngày nay gồm có những chức năng cơ bản sau: 1.3 Vai trò của Ngân hàng thương mại. Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng, có quan hệ sâu rộng trong nền kinh tế và có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trước hết vai trò đó thể hiện đối với doanh nghiệp và dân cư: Ngân hàng thương mại là người nhận gửi và trả lãi cho các khoản tiền gửi, là người thực hiện các hoạt động thanh toán phục vụ cho khách hàng như phát hành và bù trừ séc, cung cấp các mạng lưới thanh toán điện tử … Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tài trợ cho khách hàng khi có yêu cầu: giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, giúp dân cư mở rộng tiêu dùng. Và khi cần thông tin tài chính hay cần lập kế hoạch tài chính, họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn... Đối với Nhà nước, Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô, điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế theo hướng mong muốn. Không những vậy, Ngân hàng thương mại còn là người cung cấp vốn tài trợ cho những dự án lớn cả Nhà nước nhằm chống thâm hụt ngân sách qua việc mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc. Đối với nền kinh tế, Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian thu hút, tập hợp một lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư, doanh nghiệp làm kênh dẫn vốn vào nền kinh tế nhằm thoả mãn các nhu cầu vốn cho đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Và cũng qua trả lãi tiền gửi và tài trợ nền kinh tế, Ngân hàng thương mại đã khuyến khích tiết kiệm và đầu tư góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân. 2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. 2.1 Hoạt động huy động vốn. Vốn huy động bao gồm các hình thức sau: * Huy động bằng tiền gửi - Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kì hạn thường có lãi suất thấp hoặc không có lãi suất và bao gồm hai loại sau: + Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kì hạn trước hết để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ và các khoản chi phí khác phát sinh trong quá trình kinh doanh. + Tiền gửi không kì hạn thuần tuý: là khoản tiền được gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu. - Tiền gửi có kì hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa ngân hàng và khách hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này xét về bản chất chúng được kí thác với mục đích hưởng lãi. Thông thường loại tiền gửi này có thời hạn dài và lãi suất cao. - Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một phần thu nhập của cá nhân chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân * Huy động bằng cách đi vay. - Đầu tiên các ngân hàng thường xét đến việc đi vay các tổ chức tín dụng mà chủ yếu là các ngân hàng khác, khi mà họ cần cấp tín dụng số lượng lớn cho khách hàng. - Vay trực tiếp bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. - Bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng bằng các chứng chỉ tiền gửi. Ngoài ra các ngân hàng còn có thể bán nợ. - Vay ngân hàng Trung ương bằng tái chiết khấu thương phiếu. * Nhận quĩ uỷ thác đầu tư của chính phủ, các tổ chức quốc tế để cho vay đối tượng đã được lựa chọn. 2.2 Hoạt động sử dụng vốn. * Hoạt động về ngân quĩ Đảm bảo các khoản dự trữ tự nguyện, dự trữ bắt buộc theo qui định của ngân hàng trung ương, đảm bảo tính thanh khoản, tiền mặt trong quá trình thu. Các hoạt động thanh toán bù trừ, tiền gửi giao dịch tại các tổ chức tín dụng khác. Đây là hoạt động nhằm kiểm soát tình hình ngân quĩ của ngân hàng không mang tính chất sinh lời. * Hoạt động cho vay Tuỳ theo từng tiêu chí mà có thể phân loại ra các hình thức cho vay khác nhau, theo mục đích sử dụng, theo hình thức bảo đảm hay theo kỳ hạn… Có thể nói hoạt động cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. * Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán và hoạt động uỷ thác của khách hàng Ngân hàng sử dụng vốn huy động để mua chứng khoán có độ an toàn cao, tính lỏng cao như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc. Bên cạnh đó ngân hàng cũng thành lập các công ty chứng khoán hạch toán độc lập với các nghiệp vụ như: Tư vấn, môi giới, lưu ký chứng khoán, bảo lãnh… Một hoạt động khác của ngân hàng là nhận sự uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cho khách hàng và có rủi ro thấp. Ngân hàng đều có thể cung cấp cả hai loại dịch vụ uỷ thác thông thường cho các cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp. 2.3 Hoạt động trung gian. Chuyển tiền hộ Mua bán ngoại tệ, tiền mặt. Lưu ký (bảo quản tài sản, kim loại quý…) Thanh toán séc Leasing Bảo lãnh Tư vấn tài chính, môi giới… iI. nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại 1. Khái niệm bảo lãnh của Ngân hàng thương mại. Trước khi đưa ra khái niệm bảo lãnh trong ngân hàng, chúng ta hãy tìm hiểu về khái niệm bảo lãnh ở một số lĩnh vực khác . Trong pháp luật dân sự nước ta khái niệm bảo lãnh được nêu trong điều 366 Bộ luật Dân Sự: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba ( gọi là người bảo lãnh ) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ...” Trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “ Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết ...” Từ đó ta đưa ra khái niệm chung về bảo lãnh như sau: “ Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với bên yêu cầu bảo lãnh “. * Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: Theo điều 2 trong Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ( ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ- NHNN14 ngày 25 tháng 08 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ): “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay..." 2. Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng. 2.1 Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau: Thư bảo lãnh là một bản cam kết giữa Ngân hàng và Người thụ hưởng được phát hành trên cơ sở hợp đồng giữa hai bên. Tuy nhiên để hiểu cơ chế hoạt động nó cần thiết phải biết rằng bảo lãnh không chỉ là mối quan hệ hai bên mà bảo lãnh là mối quan hệ tạo thành trong mối quan hệ nhiều bên, bao gồm: - Mối quan hệ hợp đồng giữa Người được bảo lãnh và Người thụ hưởng. - Mối quan hệ hợp đồng giữa Người được bảo lãnh và Ngân hàng. Hợp đồng bảo lãnh sẽ không tồn tại nếu không có hai hợp đồng trên. Dù có sự phân chia, ba mối quan hệ này liên hệ lẫn nhau và các quan hệ này có ảnh hưởng đến nhau. 2.2 Bảo lãnh mang tính độc lập. Đặc điểm quan trọng của thư bảo lãnh là sự độc lập của nó đối với hợp đồng cơ sở. Dù rằng mục đích của thư bảo lãnh là để đền bù cho Người thụ hưởng những tổn thất do việc Người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cơ sở gây ra, nhưng Người thụ hưởng chỉ được đòi tiền theo thư bảo lãnh nếu việc đòi tiền đó phù hợp với những điều khoản, điều kiện đã được quy định trong thư bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện cớ do những vấn đề phát sinh từ hợp đồng cơ sở để từ chối nghĩa vụ của mình. Vấn đề “Liệu trong thực tế Người được bảo lãnh thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với Người hưởng thụ hay không? Hoặc liệu người thụ hưởng có được quyền đòi tiền bồi thường như đã quy định trong hợp đồng cơ sở hay không?” không phải là vấn đề đặt ra đối với Ngân hàng khi xem xét yêu cầu đòi tiền của Người thụ hưởng. Theo đó, khi những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh được thỏa mãn, Người thụ hưởng về mặt pháp lý được quyền yêu cầu đòi tiền và không cần thiết phải chỉ ra các vi phạm của Người được bảo lãnh bằng cách nào khác ngoài cách quy định trong thư bảo lãnh. Đối với Ngân hàng, quy tắc độc lập cũng có những thuận lợi. Khi người thụ hưởng có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra xem những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh có được thỏa mãn hay không. Nhiệm vụ này được thực hiện một cách khá dễ dàng bởi thực tế các điều kiện trả tiền thường được lập dưới dạng chứng từ. Ví dụ: việc xuất trình các chứng từ đòi tiền bằng văn bản thường đính kèm một tuyên bố đơn phương của người thụ hưởng về việc vi phạm của ngưòi được bảo lãnh (đối với trường hợp bảo lãnh trả tiền theo yêu cầu đầu tiên) hoặc việc xuất trình các văn bản xác nhận của bên thứ 3 về việc vi phạm hợp đồng cơ sở (đối với trường hợp bảo lãnh chứng từ) hoặc việc xuất trình phán quyết của tòa án, trọng tài. Do vậy, ngân hàng không liên quan đến các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng cơ sở giữa Người được bảo lãnh và Người thụ hưởng nên cũng không liên quan đến những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở giữa hai bên. Tuy nhiên tính chất độc lập của bảo lãnh cũng làm tăng rủi ro phải thanh toán hộ khi không có sự trung thực của bên yêu cầu bảo lãnh. 3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng. 3.1 Chức năng bảo đảm. Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. theo chức năng này người thụ hưởng sẽ nhận được sự bồi thường về mặt tài chính trong trường hợp người được bảo lãnh vi phạm cam kết. Tuy nhiên, người thụ hưởng chỉ được phép đòi tiền theo thư bảo lãnh nếu xuất trình được những chứng từ cần thiết theo đúng các điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh. Bằng việc chấp nhận phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng coi như đó là nghĩa vụ của chính mình vì lợi ích của người được bảo lãnh. Nhưng trong thực tế khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi thường của ngân hàng là rất nhỏ. Mặt khác bảo lãnh thường được sử dụng cho các thoả thuận phi mua bán như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng ... Do đó bảo lãnh không có chức năng thanh toán mà có chức năng bảo đảm. 3.2 Chức năng tài trợ. Ngân hàng phát hành bảo lãnh như một công cụ tài trợ giúp cho nhà thầu tham gia thay vì mang tiền đến đặt cọc thì chỉ cần bảo lãnh của ngân hàng. Trong trường hợp người thi công công trình hay thực hiên một hợp đồng mua bán có thể sẽ phải dùng đến một số vốn lớn trong một thời gian dài, người thi công sẽ yêu cầu từ người chủ một khoản tiền ứng trước. Lúc này ngân hàng sẽ phát hành bảo lãnh để đảm bảo cho người chủ sẽ ứng trước tiền cho người thi công. Vậy khi xét bảo lãnh ngân hàng ở những mặt này rõ ràng bảo lãnh ngân hàng mang chức năng tài trợ. 3.3 Chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng. Bảo lãnh cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và khi ngân hàng phải thực hiện việc trả tiền thì ngân hàng có quyền đòi số tiền này từ bên được bảo lãnh. Do đó người được bảo lãnh luôn luôn có một áp lực thúc đẩy họ hoàn tất hợp đồng đã ký kết một cách nhanh chóng. Mặc dù người thụ hưởng sẽ được nhận khoản tiền bồi thường khi có trục trặc xảy ra nhưng cái họ muốn là hợp đồng sẽ hoàn thành nên bảo lãnh mang ý nghĩa đốc thúc hoàn thành hợp đồng hơn là việc bồi hoàn. 3.4 Chức năng đánh giá năng lực nhà thầu. Trong giao dịch khi người bán yêu cầu đối tác phải có bảo lãnh cuả ngân hàng thì mới ký kết hợp đồng do nhiều nguyên nhân như : chưa có tín nhiệm giữa các bên, chưa hiểu về nhau do quá xa cách về địa lý... Nếu đối tác không có được bảo lãnh của ngân hàng và họ đưa ra các lý do để từ chối điều kiện phải có bảo lãnh thì người bán có thể đánh giá được ngay rằng đối tác của mình là người không đủ tin cậy để thực hiện giao dịch. Trong trường hợp đó người bán sẽ chấm dứt hợp đồng với đối tác vì họ hiểu khi ngân hàng không đồng ý bảo lãnh cho đối tác của họ, tức là đối tác là người không có đủ uy tín và năng lực để thực hiện hợp đồng. 4.Vai trò của bảo lãnh ngân hàng. Trong giao dịch bảo lãnh, mỗi một chủ thể tham gia đều được hưởng lợi ích khác nhau từ dịch vụ này. Như vậy bảo lãnh có vai trò khác nhau với các bên tham gia. 4.1 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp: Trong các quan hệ kinh tế không phải lúc nào các đối tác cũng tin tưởng nhau do rất nhiều nguyên nhân. Vì thế để đảm bảo hợp đồng được thực hiện đúng quy định, bên cung cấp thường yêu cầu bên kia phải có bảo lãnh của ngân hàng thì giao dịch mới được thực hiện. Do đó bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc để bước đầu giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận tới hợp đồng. Một vai trò nữa của bảo lãnh ngân hàng cũng rất quan trọng đối với doanh nghiệp là khi doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này của ngân hàng giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được khoản vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp trong khi đó doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí bảo lãnh tương đối thấp. Vai trò thứ ba của bảo lãnh ngân hàng là tăng thêm uy tín của doanh nghiệp với các đối tác. Bởi vì một doanh nghiệp được ngân hàng bảo lãnh chắc chắn sẽ đáng tin cậy hơn một doanh nghiệp không được ngân hàng bảo lãnh. 4.2 Vai trò bảo lãnh đối với ngân hàng: Đối với ngân hàng bảo lãnh là một trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản không nhỏ, nó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Một ưu điểm của bảo lãnh ngân hàng là không phải trả chi phí huy động như hoạt động cho vay, không mất chi phí cơ hội cho mục đích kinh doanh khác... Và mỗi khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chắc chắn thu được khoản phí này. Không chỉ đóng góp vào lợi nhuận, bảo lãnh còn làm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ trong ngân hàng và giúp làm giảm sự phụ thuộc lợi nhuận vào hoạt động tín dụng tức là đã giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro mất vốn. Mặt khác thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh giúp ngân hàng làm tốt hơn chính sách khách hàng, vừa đáp ứng nhu cầu của khách hàng truyền thống, điều này giúp ngân hàng gắn bó hơn nữa với khách hàng truyền thống , vừa thu hút các khách hàng mới. Như vậy không chỉ giúp ngân hàng tăng thêm lợi nhuận từ hoạt động này mà còn thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng: huy động vốn, thanh toán, tín dụng ... Ngoài ra bảo lãnh nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng trên thị trường đặc biệt là trên thị trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh ngân hàng tạo được thế mạnh, uy tín giúp tăng khách hàng và lợi nhuận. 4.3 Vai trò bảo lãnh đối với nền kinh tế. Sự tồn tại bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng nền kinh tế ngày một phát triển. Nó tồn tại được như vậy là do vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một chất xúc tác làm điều hoà và xúc tiến hàng loạt các quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể yên tâm tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế và có trách nhiệm với hợp đồng mình đã ký kết. Bảo lãnh đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia và là công cụ để thúc đẩy trao đổi buôn bán giữa các bên do đó có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Bảo lãnh có vai trò quan trọng trong việc tăng thêm nguồn vốn cho các doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Nhất là đối với những nước như nước ta hiện nay đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vốn đầu tư là vô cùng quan trọng. Nhưng để có được vốn đầu tư của nước ngoài thì các doanh nghiệp nước ta chưa đủ uy tín do đó phải cần đến ngân hàng đứng ra bảo lãnh để các đối tác cho vay nước ngoài yên tâm bỏ vốn cho các doanh nghiệp nước ta sản xuất kinh doanh. Như vậy nhờ vào uy tín của ngân hàng bảo lãnh, bảo lãnh trở thành công cụ tiếp cận tới các nguồn vốn của nước ngoài. Nguồn vốn này thường được tập trung vào sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ từ đó giúp doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài ra sản xuất phát triển kéo theo các lợi ích về kinh tế xã hội như: giảm thất nghiệp, tăng GDP... tức là giúp nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ . Bảo lãnh ngân hàng còn góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia. Iii. Phân loại bảo lãnh ngân hàng. Những rủi ro khác nhau trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng là lý do sinh ra nhiều loại bảo lãnh khác nhau. Dù rằng về cơ bả
Luận văn liên quan