Có thể nói khuynh hướng sử dụng các phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt ngày càng phổ biến trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng. Có rất nhiều phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như: séc, thẻ thanh
toán, các loại giấy tờ thanh toán có giá. Nhưng có thể nói thẻ tín dụng là một trong
những phương tiện được biết đến nhiều nhất và ngày càng được mọi người quan tâm
sử dụng nhất không chỉ trên toàn thế giới mà còn tại Việt Nam.Với tiện ích mang lại
cho khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế, thẻ tín dụng ngày càng khẳng định vị trí
của nó trong các hoạt động thanh toán của ngân hàng.
Kinh doanh thẻ tín dụng hiện vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt
Nam. Việc phát triển thẻ đồng nghĩa với một cuộc cách mạng trong phương thức giao
dịch và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Để đẩy nhanh tốc độ “ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” ngân hàng và nhanh chóng đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với
nền kinh tế thế giới thì thẻ tín dụng là một trong những công cụ hữu hiệu. Bên cạnh
đó việc phát triển thanh toán bằng thẻ cũng sẽ là điều kiện để chúng ta xây dựng một
nền văn minh tiền tệ.
Mặc dù đã thử nghiệm ở Việt Nam một thời gian nhưng hiện nay việc phát
triển thẻ tín dụng và thị trường thẻ tín dụng còn gặp rất nhiều khó khăn. Đây đang là
một vấn đề bức xúc đối với các ngân hàng.
Nhận thấy vai trò của thẻ tín dụng và lợi ích thiết thực mà nó mang lại đối với
nền kinh tế đất nước và thị trường thẻ thực sự là thị trường tiềm năng nên em quyết
định chọn đề tài "Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội" làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề được chia làm 3 phần chính:
Chương I: Hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.
Chương II : Thực trạng công tác phát hành và kinh doanh thẻ tín dụng tại
Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chương III : Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
66 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3555 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh
thẻ tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Hà Nội
Lời Mở đầu
Có thể nói khuynh hướng sử dụng các phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt ngày càng phổ biến trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng. Có rất nhiều phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như: séc, thẻ thanh
toán, các loại giấy tờ thanh toán có giá.. Nhưng có thể nói thẻ tín dụng là một trong
những phương tiện được biết đến nhiều nhất và ngày càng được mọi người quan tâm
sử dụng nhất không chỉ trên toàn thế giới mà còn tại Việt Nam.Với tiện ích mang lại
cho khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế, thẻ tín dụng ngày càng khẳng định vị trí
của nó trong các hoạt động thanh toán của ngân hàng.
Kinh doanh thẻ tín dụng hiện vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt
Nam. Việc phát triển thẻ đồng nghĩa với một cuộc cách mạng trong phương thức giao
dịch và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Để đẩy nhanh tốc độ “ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” ngân hàng và nhanh chóng đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với
nền kinh tế thế giới thì thẻ tín dụng là một trong những công cụ hữu hiệu. Bên cạnh
đó việc phát triển thanh toán bằng thẻ cũng sẽ là điều kiện để chúng ta xây dựng một
nền văn minh tiền tệ.
Mặc dù đã thử nghiệm ở Việt Nam một thời gian nhưng hiện nay việc phát
triển thẻ tín dụng và thị trường thẻ tín dụng còn gặp rất nhiều khó khăn. Đây đang là
một vấn đề bức xúc đối với các ngân hàng.
Nhận thấy vai trò của thẻ tín dụng và lợi ích thiết thực mà nó mang lại đối với
nền kinh tế đất nước và thị trường thẻ thực sự là thị trường tiềm năng nên em quyết
định chọn đề tài "Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội" làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề được chia làm 3 phần chính:
Chương I: Hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.
Chương II : Thực trạng công tác phát hành và kinh doanh thẻ tín dụng tại
Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chương III : Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chương I
Hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng
I. Thẻ tín dụng - sản phẩm đa tiện ích của ngân hàng :
1. Lịch sử hình thành :
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và xu hướng toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới, thẻ ngân hàng ra đời đã mang lại một cuộc cách mạng trong
tác nghiệp thanh toán của hệ thống ngân hàng bằng việc ứng dụng những thành tựu
công nghệ thông tin tiên tiến nhất. Thẻ ngân hàng là một phương thức thay thế tiền
mặt hàng đầu trong các giao dịch tiêu dùng. Tốc độ phát hành và thanh toán thẻ liên
tục tăng ở mức kỷ lục qua các năm. Hơn thế, sự phát triển của nhiều quốc gia ở khu
vực Châu á- Thái Bình Dương lại đang tiếp tục mở ra những thị trường đầy hứa hẹn
cho loại hình dịch vụ này .
Thẻ chủ yếu được phát hành bởi các ngân hàng nhưng sự ra đời của nó lại
không xuất phát từ ngân hàng mà từ tổng công ty xăng dầu Califormia (nay là công
ty Mobie). Thẻ xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào đầu thế kỉ 20. Trong hệ thống ngân hàng,
hình thức sơ khai của thẻ là Charge-it, một hình thức mua bán chịu do Ngân hàng
Flatbush National lập ra. Hệ thống này mở đường cho sự ra đời của thẻ vào năm
1951 do Ngân hàng Franklin National phát hành. Tại đây, các khách hàng đệ trình
đơn xin vay và dược thẩm định khả năng thanh toán. Những khách hàng đủ tiêu
chuẩn sẽ được cấp thẻ, dùng để thanh toán cho các thương vụ bán lẻ hàng hoá dịch
vụ. Các cơ sở này, khi nhận được giao dịch sẽ liên hệ với ngân hàng, nếu được phép
chuẩn chi họ sẽ thực hiện giao dịch và đòi tiền sau đối với ngân hàng.
Với lợi ích của việc thanh toán này, càng ngày càng có nhiều tổ chức tín dụng
tham gia thanh toán. Năm 1955, hàng loạt thẻ mới như Trip Change, Golden Key,
Guornet Club rồi đến Carte Blanche và American Express ra đời và thống lĩnh thị
trường. Tuy nhiên, để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng cần
phải có một mạng lưới thanh toán lớn, không chỉ trong phạm vi một địa phương, một
quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Đứng trước đòi hỏi đó, Interbank (MasterCharge)
và Bank of American (Bank Americard) đã xây dựng một hệ thống các quy tắc, tiêu
chuẩn trong xử lý, thanh toán thẻ toàn cầu. Năm 1977, Bank Americard trở thành
Visa USA và sau đó trở thành tổ chức thẻ quốc tế Visa. Năm 1979, MasterCharge
cũng trở thành một tổ chức thẻ quốc tế lớn khác là Mastercard.
Ngày nay, Mastercard và Visacard là hai loại thẻ lưu hành phổ biến nhất. Visa
chiếm khoảng 50% thị phần phát hành và hơn 45% thị phần thanh toán, kế đến là
Mastercard với 30% thị phần phát hành và 25% thị phần thanh toán.
Do thẻ ngày nay được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên kết
với nhau để khai thác lĩnh vực thu hút nhiều lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem
như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Bên cạnh các
loại thẻ như Mastercard, Visa, thẻ American Express (Amex) ra đời năm 1958, JCB
xuất phát từ Nhật cũng vươn lên mạnh mẽ, được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và
cùng chia những thị phần rộng lớn.
Với những tiện ích mang lại, thẻ ngân hàng đã chinh phục được những khách
hàng khó tính nhất và mở ra những thị trường đầy hứa hẹn. Có thể khẳng định rằng
thẻ ngân hàng vẫn đang và sẽ tiếp tục gặt hái được những thành công lớn trong thế kỷ
tới .
Hiện nay, trên thế giới đang có 3 loại thẻ ngân hàng được sử dụng:
+ Thẻ ghi nợ: áp dụng đối với các khách hàng có quan hệ thanh toán, tín dụng
thường xuyên có tín nhiệm với ngân hàng do Giám đốc ngân hàng quyết định,
mỗi thẻ có ghi hạn mức sử dụng tối đa do ngân hàng phát hành thẻ quy định.
+ Thẻ thanh toán: được áp dụng rộng rãi cho các khách hàng. Muốn sử dụng
loại thẻ này, khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản ứng tại ngân hàng và
được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán trong phạm vi ký quỹ.
+ Thẻ tín dụng: được áp dụng đối với các khách hàng đủ điều kiện được ngân
hàng đồng ý cho vay tiền, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi
hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp nhận.
Sau đây chuyên đề sẽ đi vào nghiên cứu hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng .
2. Khái niệm, đặc điểm chung của thẻ tín dụng:
2.1. Khái niệm :
Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán với hạn mức chi tiêu nhất định mà
ngân hàng cung cấp cho người sử dụng trên cơ sở khả năng tài chính, sổ ký quĩ hoặc
tài sản thế chấp.
Thẻ tín dụng được coi là một công cụ tín dụng trong lĩnh vực cho vay tiêu
dùng đối với các chủ thẻ. Thẻ tín dụng khác với bất kỳ hình thức tín dụng nào trước
đó bởi vì nó là một sản phẩm kết hợp của tín dụng và thanh toán. Trong các hình thức
tín dụng trước đây, khi ngân hàng đồng ý cho khách hàng vay tức là giao cho khách
hàng trực tiếp quyền sử dụng một lượng vốn nhất định. Còn khi ngân hàng cấp cho
khách hàng một thẻ tín dụng thì chưa có một lượng tiền thực tế nào được vay. Ngân
hàng chỉ đưa ra một sự đảm bảo về quyền được sử dụng một lượng tiền trong phạm
vị hạn mức của khách hàng. Việc khách hàng có thực sự vay hay không phụ thuộc
vào quá trình sử dụng thẻ của khách hàng sau đó.
Khi khách hàng sử dụng thẻ tín dụng để mua hàng hoá và dịch vụ tức là họ
đang sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Ngân hàng
đảm nhận vai trò kế toán hộ cho các chủ thẻ trên tài khoản tín dụng. Số dư phát sinh
sẽ được ghi vào bên nợ của tài khoản, được hiểu là một khoản cho vay. Khách hàng
phải tiến hành thanh toán theo sao kê khi đến hạn. Tín dụng thẻ có tính tuần hoàn và
cho phép người sử dụng mở rộng khả năng tài chính trong ngắn hạn. Chỉ cần khách
hàng tuân thủ đúng các qui định hợp đồng sử dụng thẻ thì sẽ luôn có quyền sử dụng
thẻ.
2.2. Đặc điểm chung :
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều thẻ tín dụng do các tổ chức phát hành như
Visacard, Mastercard, American express, JCB, Diner club …Phạm vi sử dụng của
các loại thẻ này trên toàn thế giới, trong đó phải kể đến 2 loại thẻ là Visacard và
Mastercard, số điểm tiếp nhận 2 loại thẻ này lên đến hàng triệu điểm.
Các loại thẻ đều có cấu tạo giống nhau, có kích thước tiêu chuẩn 6*10 cm.
Hiện nay, thẻ có thể được sản xuất bằng công nghệ thẻ từ tính hoặc thẻ thông minh.
Số lượng thẻ từ tính hiện tại đang được dùng nhiều hơn, vì nó là loại thẻ ra đời sớm
hơn, nhưng nó cũng đã bộc lộ một số nhược điểm về kỹ thuật và độ bảo mật không
cao, dễ bị làm giả. Do đó, công nghệ thẻ thông minh ra đời và nhanh chóng được ứng
dụng. Tuy thẻ thông minh có thể khắc phục được nhược điểm của thẻ từ tính nhưng
giá thành để sản xuất thì quá đắt. Việc phát hành và thanh toán thẻ tín dụng thường đi
đôi với việc thiết lập các hệ thống đầu cuối như máy gửi, rút tiền tự động ATM, máy
thanh toán thẻ tại các điểm bán hàng(POS).
Thanh toán bằng thẻ có nhiều tính năng, ưu điểm hơn hẳn các phương thức
thanh toán thông thường khác, đó là:
2.2.1. Tính linh hoạt.
Với nhiều loại thẻ đa dạng, phong phú, thẻ thích hợp với mọi đối tượng khách
hàng, từ những khách hàng có thu nhập thấp (thẻ thường) đến những khách hàng có
thu nhập cao (thẻ vàng), khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt (thẻ rút tiền mặt), cho tới
nhu cầu du lịch , giải trí.. thẻ cung cấp cho khách hàng độ thoả dụng tối đa, thoả mãn
nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng.
2.2.2. Tính tiện lợi.
Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ cung cấp cho khách
hàng sự tiện lợi mà không một phương tiện thanh toán nào có thể mang lại được. Đặc
biệt đối với người phải đi ra nước ngoài công tác hay du lịch, thẻ có thể giúp họ
thanh toán ở bất cứ nơi nào mà không cần phải đem theo tiền mặt hay séc du lịch,
không phụ thuộc vào qui mô số tiền họ cần thanh toán. Thẻ được coi là phương tiện
thanh toán ưu việt nhất trong số các phương tiện thanh toán phục vụ tiêu dùng.
2.2.3. Tính an toàn và nhanh chóng.
Chủ thẻ có thể yên tâm về số tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp. Thậm
chí, dù thẻ có thể bị lấy cắp, ngân hàng cũng bảo vệ tiền của chủ thẻ bằng số PIN,
ảnh và chữ ký trên thẻ nhằm tránh khả năng rút tiền của kẻ ăn cắp. Hơn thế nữa, hầu
hết các giao dịch thẻ đều được thực hiện qua mạng kết nối trực tuyến từ cơ sở chấp
nhận thẻ hay điêm rút tiền mặt tới ngân hàng thanh toán, ngân hàng phát hành và các
tổ chức thẻ quốc tế. Việc ghi nợ, có cho các chủ thẻ tham gia quy trình thanh toán
được thực hiện một cách tự động do đó quá trình thanh toán rất dễ dàng, tiện lợi và
nhanh chóng.
II.Các tiện ích của thẻ tín dụng :
1. Tiện ích dành cho khách hàng :
Ngày nay thẻ tín dụng đã trở thành một phương tiện thanh toán hiệu quả an
toàn và chính xác, hơn hẳn so với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
khác. Nó cho phép người sử dụng có thể mua hàng hoá, dịch vụ tại bất cứ một điểm
chấp nhận thẻ hoặc một ngân hàng thanh toán nào. Số lượng các cơ sở chấp nhận thẻ
ngày càng có xu hướng tăng lên do đó phạm vi lưu hành thẻ càng được mở rộng.
Điều này cho phép thẻ thay thế tiền mặt ở mọi nơi mọi lúc .
Với sự trợ giúp của tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng,
công nghệ sản xuất thẻ đã đến trình độ cao cộng với các biện pháp chống làm giả
mạo như mã hoá thông số từ tính hoặc kỹ thuật vi mạch điện tử đã giúp cho thẻ rất
khó làm giả .
Một điểm lợi lớn mà thẻ tín dụng đem lại cho khách hàng là một dịch vụ “ chi
tiêu trước trả tiền sau”. Các ngân hàng phát hành thẻ cấp một hạn mức tín dụng và
chủ thẻ được phép chi tiêu trong hạn mức tín dụng đó mà không phải trả tiền ngay.
Theo qui định của các ngân hàng, chủ thẻ có thể sử dụng hạn mức tín dụng và chỉ
phải thanh toán cho ngân hàng một phần nhất định khoản tiền đã sữ dụng khi đến
hạn. Đặc biệt chủ thẻ có thể sử dụng khoản tín dụng đó không chịu lãi trong thời hạn
10- 45 ngày và nếu chủ thẻ trả nợ toàn bộ số dư sao kê, chủ thẻ sẽ không phải trả
một khoản lãi nào cho ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít khách hàng thanh
toán các khoản theo sao kê. Phần lớn họ chỉ thanh toán 1 khoản lớn hơn hoặc bằng số
tiền tối thiểu mà ngân hàng qui định và chấp nhận trả lại cho số dư còn lại. Hơn thế
chi phí thực tế vào việc sử dụng thẻ không phải là lớn. Ngoài khoản lệ phí bắt buộc
thường niên mà chủ thẻ phải nộp (200.000VND cho thẻ vàng và 100.000 VND cho
thẻ chuẩn ) hầu như toàn bộ các khoản giao dịch phát sinh của chủ thẻ sẽ không bị
tính lãi nếu được thanh toán theo đúng sao kê. Hơn nữa sử dụng thẻ sẻ giúp các chủ
thẻ luôn kiểm soát và tự tính toán được các khoản phí và lãi nếu trả cho mỗi khoản
giao dịch .
2.Tiện ích dành cho các điểm tiếp nhận thẻ:
Các điểm tiếp nhận thẻ là nơi cung ứng hàng hoá và dịch vụ chấp nhận việc
thanh toán bằng thẻ. Song song với các ngân hàng, các điểm tiếp nhận thẻ cũng phát
triển ngày một nhiều. Việc thanh toán thẻ của ngân hàng sẽ không thực hiện được
nếu thiếu sự góp mặt của các điểm tiếp nhận thẻ. Có thể nói, mối quan hệ giữa ngân
hàng phát hành và các điểm tiếp nhận thẻ là mối quan hệ 2 chiều. Các điểm tiếp nhận
thẻ là khách hàng của ngân hàng, hàng hoá mà họ được ngân hàng cung cấp khi
tham gia vào mạng lưới thanh toán thẻ là dịch vụ ‘ bán hàng qua ngân hàng”. Thông
qua dịch vụ này, lợi ích của các cơ sở chấp nhận thẻ sẽ là mở rộng thị trường và
doanh số. Các chủ thẻ sẽ tìm đến các cơ sở chấp nhận thẻ để mua hàng hoá vá dịch
vụ. Điều này thoả mãn được mục tiêu của các điểm chấp nhận thẻ là tối đa hoá lượng
hàng hoá, dịch vụ cung cấp được vì mỗi điểm tiếp nhận thẻ là một cơ sở kinh doanh.
Ngân hàng thông qua dịch vụ thẻ sẽ thu được một khoản lợi nhuận là phí tính theo %
trên giá trị giao dịch thẻ. Tuyệt đại doanh số thanh toán thẻ ở Việt Nam đều là doanh
số thanh toán thẻ của khách nước ngoài. Nó như một biện pháp xuất khẩu tại chỗ và
là cơ hội để các điểm tiếp nhận thẻ mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của
mình ra thị trường nước ngoài.
3. Lợi ích đối với nền kinh tế:
Thẻ tín dụng giúp tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế,
tăng cường vòng quay của đồng tiền, khơi thông các luồng vốn khác nhau, tạo điều
kiện cho việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán trong dân cư và của cả nền
kinh tế. Hạn chế các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát các hoạt động giao dịch kinh
tế, giảm thiểu các tiêu cực và tăng cường tính chủ đạo của nhà nước trong việc điều
tiết nền kinh tế và điều hành các chính sách kinh tế tài chính quốc gia. Việc tăng tốc
độ thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông sẽ làm giảm tỷ trọng của số lượng
tiền mặt trong lưu thông, từ đó làm giảm những chi phí cần thiết lưu thông trong xã
hội (in ấn, bảo quản tiền mặt, kiểm đếm...). Hơn nữa, việc thanh toán bằng thẻ qua
việc sử dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện đại tạo điều kiện hết
sức thuận lợi cho việc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
III. Tác động của thẻ tín dụng đối với hoạt động ngân hàng :
1. Tác động đến lợi nhuận :
Là sản phẩm do ngân hàng cung ứng, thẻ tín dụng mang lại nhiều nguồn thu
khác nhau. Trước tiên phải kể đến khoản phí thường niên mà chủ thẻ phải trả theo
hợp đồng sử dụng thẻ, thẻ vàng là 200.000 VND, thẻ chuẩn là 100.000VND. Đây là
số tiền không nhỏ đối với chủ thẻ, nhưng với ngân hàng phát hành mà số lượng phát
hành đáng kể thì khoản thu sẽ lên đến con số triệu .
Các khoản giao dịch rút tiền mặt mang lại một khoản thu quan trọng cho ngân
hàng. Trong tổng doanh số hoạt động thẻ bình quân qua các năm có đên khoảng 97-
98% là doanh số rút tiền mặt. Phí rút tiền mặt ( tại ngân hàng hay tại các máy rút tiền
tự động ATM ) lên tới 4% cho ngân hàng phát hành ( lớn hơn lãi suất cho vay dài
hạn, vì ngân hàng không khuyến khích rút tiền mặt ra khỏi ngân hàng ). Ngoài ra, chủ
thẻ cũng phải chịu lãi ngày, từ ngày giao dịch phát sinh cho đến ngày sao kê. Đến
hạn thanh toán nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ dư nợ cuối kỳ đúng hạn, chủ thẻ sẽ
được miễn lãi cho các giao dịch tiền mặt từ ngày sao kê đến ngày chủ thẻ trả nợ theo
hạn. Nếu chủ thẻ không trả hoặc trả một phần dư nợ, ngân hàng sẽ tiếp tục tính lãi
đối với giao dịch rút tiền mặt chưa được thanh toán kể từ ngày sao kê và khoản lãi
này sẽ được thể hiện trên sao kê kỳ kế tiếp .
Với giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ tại các điểm tiếp nhận thẻ, theo
nguyên tắc chủ thẻ sẽ không phải trả phí cho ngân hàng. Ngân hàng vẫn duy trì được
nguồn thu cố định của mình thông qua khoản phí do cơ sở chấp nhận thẻ trả. Đây là
khoản phí liên quan tới việc thanh toán thẻ tín dụng theo % tính trên trị giá giao dịch
thẻ. Khoản phí này là 3% cho mọi giao dịch. Hơn nữa ngân hàng vẫn thu được một
khoản lãi nếu khách hàng chỉ thanh toán một phần số dư khi đến ngày sao kê .
Nguồn thu của ngân hàng còn đến từ khoản phí chậm trả trên số dư thanh
toán tối thiểu. Hàng tháng ứng với mỗi sao kê, ngân hàng buộc khách hàng phải
thanh toán một số tiền tối thiểu. Nếu khách hàng chỉ trả một phần số tiền này, phần
dư nợ tối thiểu còn lại sẽ phải chịu phí chậm trả lên tới 3%.
Đối với các ngân hàng đại lý, khi thực hiện thanh toán hộ cho ngân hàng phát
hành sẽ được hưởng một phần chiết khấu thương mại ( tỷ lệ do tổ chức thẻ qui định )
khi tiến hành đòi tiền với ngân hàng phát hành thẻ. Trên 95% doanh số sử dụng thẻ
tín dụng ở Việt nam đều là các thẻ tín dụng do các ngân hàng nước ngoài phát hành.
Bởi vậy, các ngân hàng ở Việt Nam đều thu được một khoản phí không nhỏ khi làm
đại lý thanh toán cho các loại thẻ này.
Ngoài các khoản thu kể trên, ngân hàng còn có các khoản thu khác như :
+ Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời: phát sinh khi chủ thẻ muốn nâng hạn
mức tín dụng.
+ Phí tra soát: khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho yêu cầu tra soát của mình.
+ Phí cấp lại thẻ: (do mất cắp, thất lạc ) và đổi thẻ ( theo yêu cầu của chủ thẻ)
+ Phí đưa thẻ mất cắp thất lạc lên danh sách thẻ cấm lưu hành.
2. Tác động đến công tác thanh toán :
Theo nhận xét và đánh giá của một số chuyên gia nước ngoài, Việt nam là một
quốc gia đang sử dụng quá nhiều tiền mặt. Toàn bộ hệ thống ngân hàng trong nước
hiện nay có khoảng 60.000 người thì có khoảng 6500 người làm các cộng việc: in
tiền, huỷ tiền, phân loại tiền, thủ quỹ chiếm 13% tổng số nhân viên ngân hàng. Tình
trạng sử dụng quá lớn tiền mặt trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay đang làm cho
chúng ta mỗi năm mất đi tới hơn 1 tỷ đô la. Thẻ ra đời mang lại một bước nhảy vọt
trong thanh toán, tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn, có
hiệu quả chính xác tin cậy và tiết kiệm thời gian .
Quy mô của thị trường thẻ tăng lên kéo theo số lượng gia tăng của các điểm
tiếp nhận thẻ. Các ngân hàng luôn phải trang bị những phương tiện máy móc hiện đại
nhất, đó cũng là tiền đề và là bước đột phá để các hình thức thanh toán tận dụng được
những thành tựu công nghệ mới. Hiện nay, tất cả các ngân hàng phát hành, thanh
toán thẻ đều sử dụng hệ thống kết nối trực tiếp ON LINE khi giao dịch với tổ chức
thẻ quốc tế .
3.Tác động tới công tác huy động vốn quĩ :
Quá trình nghiên cứu qui trình phát hành và thanh toán thẻ tín dụng cho thấy
một điều là “ thẻ tín dụng làm tăng trưởng lượng vốn huy động của ngân hàng”.
Sơ đồ 1 : Tác động của thẻ tín dụng tới công tác huy động vốn quỹ.
(3)Cung ứng hàng hoá dịch vụ
(1) Cấp thẻ TD cho KH
*Bước1:Ngân hàng phát hành cấp thẻ tín dụng cho chủ thẻ sau khi hồ sơ xin
sử dụng thẻ của chủ thẻ được chấp nhận.
*Bước2: Chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng để mua hàng hoá, dịch vụ tại các điểm
chấp nhận thẻ.
*Bước3: Các cơ sở chấp nhận thẻ cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho chủ thẻ.
*Bước4: Các cơ sở chấp nhận thẻ gửi hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng
phát hành hoặc ngân hàng thanh toán.
*Bước5: Ngân hàng phát hành (NHTT) ghi có tài khoản tiền gửi của CSCNT
và ghi nợ TK thẻ tín dụng của chủ thẻ. Để thuận tiện cho việc thanh toán, các
CSCNT đều có TK tiền gửi ở ngân hàng thanh toán, do vậy ở bước 5 số dư tiền gửi
đã tăng lên.
*Bước 6: Chủ thẻ thực hiện thanh toán nợ cho ngân hàng. Ngân hàng ghi