Lao động, theo C. Mác, là hoạt động cơ bản của con người. Trong
các linh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,. Tuỳ theo
linh vực, tính chất hoạt động mà lao động được phân chia thành lao động
sản xuất kinh doanh, lao động khoa học, lao động văn hoá, nghệ thuật,.
Những người tham gia hoạt động trong các linh vực của đời sống xa
hội được gọi là người lao động. Nhưng người lao động, theo sự phân loại
có tính chất truyền thống được chia thành: Những người trong độ tuổi
lao đ ộng là những người ở độ tuổi lao động (tuỳ theo từng quốc gia) có
nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã được Hiến Pháp ghi
nhận.
Người ngoài độ tuổi lao động gồm những người chưa đến tuổi lao
động, những người đã hết tuổi nghĩa vụ lao động (theo quy định của
Hiến Pháp)nhưng vẫn tham gia lao động.
Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang l àm vi ệc
hoặc ch ưa có việc l àm nhưng đang có nhu cầu và đang tìm kiếm việc l àm.
Lực lượng lao động, nhất là nguồn lao động và chất lượng nguồn
lao động có vai trò như nhân tố hàng đầu của những nhân tố quan trọng
nhất trong phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn lao động là phạm trù phản ánh lực lượng quan trọng nhất
của nền sản xuất xã hội. Theo từ điển thống kê: Nguồn lao động xã hội là
toàn thể những thành viên trong xã hội có khả năng tham gia lao động.
Bao gồm: những người theo quy định của Nhà nước ở ngoài độ tuổi quy
định nhưng thực tế đang tham gia lao động.
39 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2501 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
Luận văn
GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN
LAO ĐỘNG
1
Chương I
YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG
1- Nguồn lao động
1.1- Các khái niệm
1.1.1- Khái niệm lao động, lực lượng lao động và nguồn lao động
Lao động, theo C. Mác, là hoạt động cơ bản của con người. Trong
các linh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,... Tuỳ theo
linh vực, tính chất hoạt động mà lao động được phân chia thành lao động
sản xuất kinh doanh, lao động khoa học, lao động văn hoá, nghệ thuật,...
Những người tham gia hoạt động trong các linh vực của đời sống xa
hội được gọi là người lao động. Nhưng người lao động, theo sự phân loại
có tính chất truyền thống được chia thành: Những người trong độ tuổi
lao động là những người ở độ tuổi lao động (tuỳ theo từng quốc gia) có
nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã được Hiến Pháp ghi
nhận.
Người ngoài độ tuổi lao động gồm những người chưa đến tuổi lao
động, những người đã hết tuổi nghĩa vụ lao động (theo quy định của
Hiến Pháp)nhưng vẫn tham gia lao động.
Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang làm việc
hoặc chưa có việc làm nhưng đang có nhu cầu và đang tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động, nhất là nguồn lao động và chất lượng nguồn
lao động có vai trò như nhân tố hàng đầu của những nhân tố quan trọng
nhất trong phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn lao động là phạm trù phản ánh lực lượng quan trọng nhất
của nền sản xuất xã hội. Theo từ điển thống kê: Nguồn lao động xã hội là
toàn thể những thành viên trong xã hội có khả năng tham gia lao động.
Bao gồm: những người theo quy định của Nhà nước ở ngoài độ tuổi quy
định nhưng thực tế đang tham gia lao động.
Như vậy, nguồn lao động của xã hội hay của mỗi địa phương,
ngành, đơn vị sản xuất... là tổng thể những người lao động ở địa
phương, ngành, đơn vị sản xuất... và được xem xét trong những khoảng
2
thời gian nhất định. Sức lao động là khả năng lao động, được biểu hiện
trên hai phương diện: Số lượng và chất lượng của nguồn lao động.
Số luợng nguồn lao động: Về nguyên tắc, đó là tổng số người lao
động xét về mặt thể lực của họ với tư cách là một yếu tố của quá trình
lao động sản xuất. Tuy nhiên, con người ngoài tư cách là yếu tố của quá
trình lao động sản xuất. Tuy nhiên, con người ngoài tư cách là yếu tố của
quá trình lao động sản xuất còn là thành viên của xã hội, tham gia các
hoạt động xã hội, đảm bảo tái sản xuất tự nhiên sức lao động. v. v. Vì
vậy, thể lực của con ngườiđược xem xét như là yếu tố của sản xuất, kinh
doanh theo những chừng mực nhất định, tuỳ thuộc vào thực trạng thể lực
con người theo đặc tính chung về giới tinh, tuổi tác... , những biểu hiện
cụ thể của từng nguời như sự phát triển bình thường hay bị tàn tật..., và
thực trạng kinh tế xã hội của từng nước. Chính vì vậy, số lượng lao động
và số lượng nguồn lao động được đo bằng số lượng người lao động theo
những quy định nhất định, được gọi là lao động quy đổi.
Sở dĩ số lượng lao động được đo bằng lao động quy đổi vì nó bao
gồm nhiều loại lao động khác nhau. Bộ phận cấu thành quan trọng nhất
của nguồn lao động là người lao động trong độ tuổi quy định gọi tắt là
lao động trong độ tuổi quy định.
Lao động trong độ tuổi quy định là những người ở trong độ tuổi
nhất định theo quy định của Nhà nước, có nghĩa vụ và quyền lợi đem sức
lao động của mình làm việc cho mình và cho xã hội, chịu sự điều động
phân bổ của nhà nước để làm các công việc chung của xã hội. Theo quy
định chung, độ tuổi lao động tính từ 16 đến 60 đối với nam và 16 đến 55
đối với nữ. Tuy là trong độ tuổi lao động, nhưng vì nguồn lao động là
toàn là những thành viên trong xã hội có khả năng tham gia lao động. Vì
vậy, những người tàn tật không còn khả ngăng lao động, măc dù trong
độ tuổi quy định nhưng không được tính vào số lượng nguồn lao động.
Ngoài những người trong độ tuổi quy định, số lượng nguồn lao
động còn bao gồm những người ngoài độ tuổi lao động(chưa đến hoặc đã
quá tuổi lao động quy định của Nhà nước)nhưng thực tế vẫn tham gia lao
động.
Theo quy định hiện hành, ngoài độ tuổi lao động bao gồm:
3
+ Dưới độ tuổi quy định: Nam, nữ từ 13 tuổi đến 15 tuổi.
+ Trên độ tuổi quy định: Nam từ 61 tuổi trở lên, nữ từ 56 tuổi trở
lên.
Lao động ngoài độ tuổi quy định tham gia lao động do tự nguyện,
Nhà nước không tính vào kế hoạch phân bổ sức lao động, không huy
động vào những công việc có tính chất nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Chất lượng nguồn lao động là phạm trù biểu hiện ở từng người lao
động và trên phạm vi từng vùng, từng đơn vị sản xuất kinh doanh trên
các mặt như: Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, trình
độ tổ chức cuộc sống, các yếu tố về tâm lý tập quán, trình độ sức khoẻ,
phẩm chất đạo đức, trình độ và ý thức pháp luật...
Như vậy, chất lượng nguồn lao động chủ yếu biểu hiện trí lực của
người lao động và chất lượng về thể lực của người lao động.
Trí lực của người lao động được thể hiện thông qua một loạt các
tiêu thức phản ánh các mặt nhận thức của con người cụ thể:
Trình độ văn hoá của người lao động là những chi thức của nhân
loại mà người lao động tiếp thu được theo những cấp độ khác nhau. Về
thực chất, trình độ văn hoá của người lao động đạt được thông qua nhiều
hình thức: Học tập tại trường lớp, tự học, học qua thực tế... nhưng phần
lớn được tiếp thu qua trường lớp. Vì vậy, xã hội đánh giá trình độ văn
hoá thông qua bằng cấp của người lao động đạt được ở các trường phổ
thông, các trường cao đẳng, đại học. Các trường hợp trên đã phản ánh
chính xác trình độ văn hoá của người lao động.
Một số người trong thực tế có năng lực, song họ không có điều kiện
học tập qua trường lớp để thi cử và lấy bằng. Cũng có một số người tuy
đã có bằng cấp nhưng trên thực tế khả năng rất hạn chế.
Đối với người lao động, trình độ văn hoá là cơ sở quan trọng để họ
tiếp thu các kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, giác ngộ giai cấp và
nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động... Vì vậy, đây là tiêu thức
quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn lao động.
Trình độ chuyên môn, nghề nghiệp là những kiến thức về chuyên
môn, nghề nghiệp của người lao động theo những cấp độ khác nhau.
4
Đánh giá trình độ chuyên môn nghề nghiệp cũng thông qua bằng cấp
chuyên môn của người lao động đã đạt được thông qua học tập và thi cử
như tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, trung cấp, sơ cấp, công nhân kỹ
thuật... Trình độ chuyên môn thể hiện khả năng ứng dụng lý thuyết với
thực hành để tạo ra sản phẩm. Trình độ càng cao tư duy sáng tạo càng
lớn. Trình độ chuyên còn thể hiện ở trình độ tay nghề người lao động.
Tâm lý, tập quán là phạm trù biểu hiện những suy nghĩ, những thói
quyen trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của dân cư ở từng vùng,
từng dân tộc và từng ngành sản xuất. Về thực chất, tâm lý, tập quán là
những nhân tố tác động đến chất lượng nguồn lao động, nhưng trong đó
có nhiều yếu tố cấu thành chất lượng nguồn lao động. Tâm lý, tập quán
phản ánh chất lượng nguồn lao động, như tâm lý coi thường phụ nữ dẫn
đến hạn chế cho phụ nữ học tập văn hoá, chuyên môn nghề nghiệp sẽ
làm cho chất lượng lao động nữ thấp hơn nam giới.
Trình độ tổ chức cuộc sống là tiêu thức phản ánh trình độ văn hoá,
trình độ chuyên môn nghề nghiệp, tâm lý tập quán của các tầng lớp dân
cư, đây cũng là yếu tố cấu thành chất lượng nguồn lao động. Đánh giá
trình độ tổ chức cuộc sống, ngoài những tiêu thức về kinh tế như thu
nhập, mức độ tái sản xuất mở rộng... , còn có những tiêu thức mang tính
xã hội như sự học hành và trình độ của trẻ em. Trong điều kiện năng suất
lao động và thu nhập thấp, trình độ tổ chức cuộc sống có ảnh hưởng rất
lớn đến các hoạt động sản xuất và đời sống.
Trình độ và ý thức pháp luật là kiến thức và sự tuân thủ pháp luật
của người lao động. Trình độ pháp luật của người lao động thu nhận
được qua học tập ở trường phổ thông, trường đào tạo nghề, qua hoạt
động sản xuất và đời sống. Trong nguồn lao động có bộ phận nhỏ được
đào tạo chuyên ngành để hoạt động tư vấn pháp luật và trong các cơ
quan pháp lý, còn số đông kiến thức pháp luật là những kiến thức cơ bản
về các quy định của pháp luật, về các hoạt động dân sự, hoạt động kinh
tế... ý thức pháp luật của người lao động thực hiện theo hai hướng:
Không làm những điều pháp luật cấm và thực hiện những điều pháp luật
yêu cầu
5
Trình độ sức khoẻ, cơ cấu độ tuổi: Đây là các chỉ tiêu phản ánh chất
lượng nguồn lao động về mặt chất của thể lực lao động.
Tri thức được thể hiện ở trình độ sức khoẻ, cơ cấu độ tuổi của người
lao động, đó là hai mặt chất lượng nguồn lao động.
Ta có sơ đồ sau:
Do đó, đánh giá một đất nước giàu mạnh, kinh tế phát triển cao, người
ta thường so sánh về chất lượng lao động chứ không thể so sánh về số
lượng lao động. Nói cách khác, chất lượng nguồn lao động hay những con
người lao động có trình độ là ”Tài sản quý giá nhất” của mỗi quốc gia.
1.1.2- Vai trò của nguồn lao động.
Quá trình sản xuất vật chất hiểu theo nghĩa chung nhất là tổ chức
kết hợp các yếu tố sức lao động, đất đai, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu...
để tạo ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ mục đích của con người. Như vậy,
sức lao động là một trong các yếu tố quan trọng nhất để tạo ra của cải vật
chất. Uyliam Peti đã nói: Lao động là cha, đất là mẹ của mọi của cải vật
chất. Trong nghiên cứu và đánh giá điều kiện sản xuất, của địa phương
và quốc gia, nguồn lao động được coi là nguồn lực cho sự phát triển.
Người ta đã chứng minh, sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện chủ yếu
của sự tồn tại xã hội loài người, là cơ sở cho sự phát triển các nghành
kinh tế, văn hoá, giáo dục và y tế.
Trong các yếu tố cấu thành nguồn lao động, số lượng và chất lượng
của nguồn lao động có ảnh hưởng đến sử dụng nguồn lao động và sự
phát triển kinh tế:
Về số lượng nguòn lao động: Nguồn lao động dồi dào cho phép đầu
tư khai thác các nguồn lực tự nhiên, phát triển các kinh tế xã hội. Đó là
lợi thế của bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, khác cac yếu tố khác, người
lao động là nguồn lực với tư cách là sức lao động có yêu cầu về tâm sinh
lý, có quan hệ xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế. Vì vậy, ngoài việc
người lao động tham gia vài quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất,
họ còn tiêu phí các sản phấmản xuất ra, qua quá trnhf sinh ra, lớn lên, già
đi và chết.
6
Khai thác mặt lượng của nguồn lao động dòi hỏi phải có cơ chế,
chính sách đúng đắn, thu hút lao động vào sản xuất của cải vật chất cho
xã hội. Một xã hội nếu thiếu chính sách đúng đắn sẽ nảy sinh những mặt
tiêu cực, hạn chế đến việc sử dụngnguồn nhân lực.
Về chất lượng nguồn lao động: Sự phát triển của nền sản xuất xã
hội, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phép chất lượng nguồn lao động
không ngừng tăng lên. Sự tăng lên của chất lượng nguồn lao động cho
phép nâng cao năng suất lao động, khối lượng sản phẩm sản xuất ra ngày
càng nhiều, các hoạt động dịch vụ cung cấp ngày càng thuận tiện. Sự di
chuyển của nguồn lao động theo xu hướng từ các ngành sản xuất vật chất
sang các ngành thương mại dịch vụ và các ngành văn hoá giáo dục. Nhờ
đó, xã hội có khả năng đáp ứng nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội.
Nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp sẽ dẫn đến
năng suất lao động thấp, do đó hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu vật
chất, tinh thần của xã hội có xu hướng ngày càng tăng cao.
Cần nhấn mạnh thêm rằng, tuy sức lao động là một trong các yếu tố
của quá trình sản xuất, nhưng nó có vị trí khác biệt so với các yếu tố
khác. Đó là tính chủ động của bản thân người lao động, với tư cách là
chủ thể sử dụng và tác động đếncác yếu tố khác trong quá trình sản xuất.
Sự nhấn mạnh trên đay còn có ý nghĩa rằng: Theo các nhà kinh
điển, nếu phương thức sản xuất là dấu ấn để phân biệt xã hội qua các
thời đại, nếu phương thức sản xuất là dấu ấn để phân biệt xã hội qua các
thời đại, trong đó lưc lượng sản xuất có vai trò quyết định và con người-
nói cách khác nguồn lực lao động-là yếu tố đông nhất, quyết định tới sự
phát triển của lực lượng sản xuất, thì nguồn lao động chính là yếu tố cơ
bản của sự phát triển kinh kế-xã hội của mỗi thời đại cũng như của mỗi
quốc gia.
Nguồn lao động không chỉ có tác động tích cực, quyết định đối với
sự phát triển kinh tế -xã hội mà còn là yếu kìm hãm, cản trở sự phát triển
đó, nếu nguồn lao động quá lớn, chất lượng kém, cơ cấu lao động chưa
hợp lý,...
1. 1. 3-Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động.
7
Nguồn lao động nói chung, chất lượng nguồn lao động nói riêng
không ngừng biến đổi theo hướng tăng cả về số lượng. Sự biến động của
nguồn lao động, đăc biệt của chất lượng nguồn lao động do sự tác động
của nhiều nhân tố:
1.1.3.1- Các nhân tố tự nhiên.
Các nhân tố về tự nhiên baogồm thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn
nước, nguồn tài nguyên... Sự ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên đến
chất lượng nguồn lao động trên hâi phương diên trực tiếp và gián tiếp:
Thứ nhất, các nhân tố ự nhiên tác động trực tiếp đến người lao động
làm ẩnh hưởng đến sức khoẻ của họ.
Các yếu tố thuận lợi về thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn nước có
dự ảnh hưởng tốt tới sức khoẻ của người lao động, làm cho chất lượng
nguồn lao động được đảm bảo và có đều kiện được nâng lên. Ngược lại,
các điều kiện về tự nhiên bất lới sẽ ảnh hưởng tới thể lực, tới sức khoẻ
của con người và của tất cả nguồn lao động.
Thứ hai, các nhân tố về tự nhiên với tư cách là nguồn lực của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương, mỗi đơn vị sản xuất... , là cơ sở cho sự phát
triển kinh tế, tạo ranhững điều kiên vật chất để nâng cao chất lượng
nguồn lao động về trình độ văn hoá, trình độ chuyôn môn nghề nghiệp...
và ngược lại. ở đây, các điều kiện tự nhiên tác động đến chất lượng
nguồn lao động được biểu hiện ở dạng tiềm năng, sự tác động được thể
hiện còn tuỳ thuộc vào trình độ khai thác các tiềm năng đó.
1.1.3.2- Các nhân tố kinh tế:
Các nhân tố kinh tế bao gồm tiềm lực kinh tế và trình độ phát triển
kinh tế.
Các tiềm lực kinh tế bao gồm: Quỹ đất đai, tài chính, tiền tệ, dự trữ,
cơ sở hạ tầng sản xuất và hạ tầng xã hội... Tiềm lực kinh tế cũng là nhân
tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng nguồn lao động:
Thứ nhất, các yếu tố kinh tế tác động đến sự phát triển kinh tế, từ
đó tạo ra các điều kiện về vật chất nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Một tiềm lực kinh tế yếu kém-chẳng hạn nguồn lực ngân sách Nhà nước
ít ỏi, ít có cơ hội đầu tư thích đáng cho giáo dục, đào tạo để nâng cao
8
chất lượng nguồn lao động nói chung, mỗi ngành, lĩnh vực nói riêng.
Giống như các yếu tố tự nhiên, sự tác động này cũng ở dạng tiềm năng,
và phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động trong việc khai thác các yếu
tố này như thế nào.
Thứ hai, các yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
nguồn lao động. Bởi vì, các yếu tố kinh tế vừa là các điều kiện cho sự
phát triển kinh tế của đất nước, địa phương, vùng... , vừa ảnh hưởng tới
khả năng đầu tư học tập của người lao động và chất lượng nguồn lao
động. Nói cách khác các nhân tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng nguồn lao động.
Sự tác động của các nhân tố đến chất lượng nguồn lao động theo
hướng thuận chiều của sự phát triển kinh tế. Trong đó, các cơ sở hạ tầng
kinh tế, hạ tầng xã hội có sự chi phối mạnh mẽ nhất.
Trình độ phát triển kinh tế thể hiện ở sự phát triển của từng ngành
kinh tế, ở kết quả sản xuất, thu nhập và đời sống của người lao động.
Đây là kết quả của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và trình độ khai
thác chúng. Đây cũng là nhân tố tác động tổng hợp, trực tiếp đến chất
lượng của nguồn lao động, đồng thời cũng là kết quả sử dụng nguồn lao
động cả về số lượng lẫn chất lượng với tư cách là một nguồn lực. Có thể
nói, trình độ phát triển kinh tế, xã hội vừa là nguyên nhân vừa là chất
lượng của nguồn lao động. Vì vậy, xem xét sự phát triển kinh tế một đất
nước, một địa phương... , có thể đánh giá sự tác động của nó đến chất
lượng nguồn lao động, đồng thời cũng thấy rõ sự tác động của chất
lượng lao động đến sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.3.3- Các nhân tố xã hội:
Phong tục tập quán, thể chế chính trị... , cũng là những nhân tố tác
đông đến chất lượng nguồn lao động. Trong đó, phong tục tập quán ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn lao động ở mức độ đầu tư cho hoạt động
văn hoá, học tập chuyên môn trong từng gia đình và hình thành nên ý
thức trong lao động sản xuất, trong chấp hành pháp luật. Trên thực tế, do
tác động của phong tục tập quán và truyền thống đã hình thành những
vùng “đất học” đua tranh trong học tập văn hoá và kỹ thuật đã làm cho
chất lượng nguồn lao động ở đó cao hơn hẳn các vùng khác.
9
Về thể chế chính trị: Sự tác động của nó tới chất lượng nguồn lao
động chủ yếu thể hiện sự ưu tiên đâù tư của Chính phủ tới việc nâng cao
trình độ dân trí đào tạo nhân tài và chất lượng nguồn nhân lực trên các
phương diện khác nhau: Đầu tư các yếu tố vật chất, sử dụng hợp lý
nguồn lao động và có chính sách hợp lý khuyến khích nâng cao chất
lượng nguồn lao động.
1.1.3.4- Nhân tố về giáo dục-đào tạo:
Nền tảng tri thức chuyên môn, kỹ năng lao động cao hay thấp,...
tuỳ thuộc vào kết quả giáo dục-đào tạo.
Nguồn lực lao động lớn về số lượng, song ít được đào tạo sẽ ảnh
hưởng mạnh mẽ tới chất lượng nguồn lao động. Cũng vì thế nguồn lực
lao động này không những không trở thành nguồn lực của tăng trưởng,
phát triển kinh tế-xã hội, mà ngược lại trở thành gánh nặng trong giải
quyết việc làm, thất nghiệp,... cản trở phát triển nói chung.
Tuy nhiên nhân tố giáo dục -đào tạo tác động tới chất lượng nguồn
lao động không chỉ trực tiếp trước mắt(ngắn hạn)mà còn tác động mạnh
trong dài hạn. Vì vậy, để nâng cao chất lượngnguồn lực lao động hầu hết
các quốc gia đều phải có chiến lược giáo dục đào tạo cơ bản, dài hạn,
tổng thể. Chiến lược đó bao gồm cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu kiến thức,
cơ cấu lao động cần đào tạo, hệ thống cơ sở cần thiết cho đào tạo nhân
lực,... từ đó xác định nguồn vốn tài chính cần thiết theo tỷ lệ phần trăm
ngân sách Nhà nước hay phần trăm GDP đầu tư cho giáo dục-đào tạo.
10
Chương II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN
LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
2.1- Đặc điểm cơ bản của Việt Nam và ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn lao động.
2.1.1- Đánh giá, dự báo các yếu tố nguồn lực.
2.1.1.1- Về nguồn lực:
Các yếu tố nguồn lực được tính đến khi hoạch định Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 2001-2002 dựa trên sự phân tích, đánh giá dự báo có
tính khả thi và theo quan điểm nền kinh tế mở. Việt Nam có vị trí địa lý
thuận lợi là điều kiện để thực hiện chiến lược “mở cửa” và “hội nhập”,
đó là một lợi thế, là điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế giữa nước ta
với các nước trên thế giới.
Nước ta có tài nguyên thiên nhiên đa dạng là điều kiện để phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tương đối đa dạng.
Sự đa dạng về đất đai, khí hậu, và tiềm năng lớn là tiền đề thúc đẩy
để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng, phù hợp điều
kiện sinh thái. Đa dạng về khoáng sản là điều kiện phát triển công nghiệp
tương đối vững chắc: Từ dầu khí hình thành nghành hoá dầu mà không
phải nước nào cũng có. Than đá và trữ năng thuỷ điện lớn để phát triển
năng lượng điên đi trước. than ngoài sử dụng trong nước còn có thể xuất
khẩu.
Tài nguyên biển là một quá trình quan trọng cho quá trình CNH,
vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế nội địa, vừa mở rộng kinh tế hướng
ngoại.
Yếu tố dân số và lao động vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu tác
động đến quá trình CNH, HĐH đất nước. Đây là yếu tố quan trọng bậc
nhất trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta:
11
2.1.1.1.1- Áp lực lớn về việc làm:
Lực lượng lao động ở Việt Nam trong những năm gần đây đã liên
tục tăng với tốc độ cao, một mặt tạo nguồn lực lớn cho phát triển đất
nước, nhưng mặt khác cũng tạo ra áp lực lớn về đào tạo nghề và giải