1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đổi mới nền kinh tế theo hướng nền kinh tế mở do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng đòi hỏi hệ thống Ngân hàng Việt Nam, trong đó có Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng phải thực sự đổi mới để phù hợp với tình hình thực tiễn và xu thế hội nhập khu vực và thế giới.
Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng, hoạt động kinh doanh với chức năng hạch toán kinh tế và thực hiện kinh doanh thiết bị, vât tư Ngân hàng. Trong những năm qua Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng đã nhanh chóng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, dần dần thay đổi cơ cấu kinh doanh thích hợp với sự đổi mới nền kinh tế đất nước. Song cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng luôn phải thay đổi theo môi trường hoạt động để thích nghi với nhiệm vụ chức năng của Công ty thiết bị vật tư chuyên ngành ngân hàng, nên các cơ chế chính sách luôn phải được đổi mới. Trên giác độ này, hiện nay hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng cũng còn khá nhiều bất cập, như: chất lượng kinh doanh chưa cao, tiềm ẩn những yếu tố không vững chắc trong chiếm lĩnh thị trường về khách hàng, cơ cấu nguồn vốn, nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ để mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng chưa cao và bền vững so với khả năng, . Vì vậy, luận văn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng” làm mục tiêu nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân tồn tại trong hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp nâng cao nâng cao hiệu quả kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của lĩnh vực thiết bị, vật tư Ngân hàng; từ đó phân tích tình hình thực tiễn hoạt động kinh doanh tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng trong những năm đổi mới gần đây.
Luận văn tập trung chủ yếu vào những vấn đề về thực hiện cơ chế chính sách kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng, những vướng mắc tồn tại, phương hướng cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư ngân hnàg tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khái quát hoá và các phương pháp lý thuyết hệ thống, thống kê, phân tích kinh tế, đánh giá thực trạng tìm giải pháp và các phương pháp nghiên cứu thông thường.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng
79 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đổi mới nền kinh tế theo hướng nền kinh tế mở do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng đòi hỏi hệ thống Ngân hàng Việt Nam, trong đó có Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng phải thực sự đổi mới để phù hợp với tình hình thực tiễn và xu thế hội nhập khu vực và thế giới.
Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng, hoạt động kinh doanh với chức năng hạch toán kinh tế và thực hiện kinh doanh thiết bị, vât tư Ngân hàng. Trong những năm qua Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng đã nhanh chóng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, dần dần thay đổi cơ cấu kinh doanh thích hợp với sự đổi mới nền kinh tế đất nước. Song cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng luôn phải thay đổi theo môi trường hoạt động để thích nghi với nhiệm vụ chức năng của Công ty thiết bị vật tư chuyên ngành ngân hàng, nên các cơ chế chính sách luôn phải được đổi mới. Trên giác độ này, hiện nay hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng cũng còn khá nhiều bất cập, như: chất lượng kinh doanh chưa cao, tiềm ẩn những yếu tố không vững chắc trong chiếm lĩnh thị trường về khách hàng, cơ cấu nguồn vốn, nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ để mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng chưa cao và bền vững so với khả năng, ... Vì vậy, luận văn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng” làm mục tiêu nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân tồn tại trong hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp nâng cao nâng cao hiệu quả kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của lĩnh vực thiết bị, vật tư Ngân hàng; từ đó phân tích tình hình thực tiễn hoạt động kinh doanh tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng trong những năm đổi mới gần đây.
Luận văn tập trung chủ yếu vào những vấn đề về thực hiện cơ chế chính sách kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng, những vướng mắc tồn tại, phương hướng cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư ngân hnàg tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khái quát hoá và các phương pháp lý thuyết hệ thống, thống kê, phân tích kinh tế, đánh giá thực trạng tìm giải pháp và các phương pháp nghiên cứu thông thường.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Khái niệm DN thường được làm rõ thông qua phạm trù xí nghiệp. Người ta hiểu: ''xí nghiệp là một đơn vị kinh tế được tổ chức một cách có kế hoạch để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (dịch vụ)'' [23]. Xí nghiệp được coi là một hệ thống có các đặc trưng cơ bản là vừa phụ thuộc, lại vừa không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế.
Với tư cách là hệ thống không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế cụ thể, xí nghiệp mang ba đặc trưng cơ bản: sự kết hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm, nguyên tắc cân bằng tài chính và nguyên tắc hiệu quả.
Với tư cách hệ thống phụ thuộc và cơ chế kinh tế cụ thể sẽ có xí nghiệp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và trong cơ chế thị trường. Từ đó định nghĩa ''DN là một xí nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường''. Mỗi DN đều là xí nghiệp nhưng không phải mọi xí nghiệp đều là DN.
Có thể hiểu DN từ định nghĩa tổ chức. Tổ chức là một nhóm có tối thiểu hai người, cùng hoạt động với nhau một cách qui củ theo những nguyên tắc, thể chế và các tiêu chuẩn (văn hoá) nhất định, nhằm đặt ra và thực hiện các mục tiêu chung. Một tổ chức có ba đặc trưng cơ bản là:
- Một nhóm người cùng hoạt động với nhau
- Có mục tiêu chung
- Được quản trị theo các thể chế, nguyên tắc nhất đinh. Các nguyên tắc được quan niệm như là các chuẩn mực, tiêu chuẩn cần thiết để điều hành tổ
chức một cách có trật tự nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra.
Có thể phân loại tổ chức theo các tiêu thức khác nhau. Xét theo tính chất hoạt động sẽ có tổ chức chính trị, xã hội, kinh doanh,:.. Nếu xét theo mục tiêu sẽ có tổ chức nhằm mục tiêu lợi nhuận và tổ chức không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Xét theo tính chất tồn tại sẽ có tổ chức ổn định và tổ chức tạm thời.
Từ đó có thể hiểu DN là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường. Hạn chế của khái niệm này là dựa trên cơ sở định nghĩa tổ chức là nhóm tối thiểu hai người trong khi không nhất thiết DN cần điều kiện có tới thiểu hai người.
Cho đến nay ở nước ta người ta vẫn hay có thói quen chỉ định nghĩa DN theo luật. Trong Luật Doanh nghiệp có giải thích: ''DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động KD''7. Khái niệm DN ở góc độ luật sẽ mang ý nghĩa chi phối của luật pháp trong khi chúng ta nghiên cứu DN ở nhiều góc độ khác nhau.
1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp.
Tính phổ biến của hoạt động KD và trên cơ sở đó là tính phổ biến của hoạt động QT trước hết phụ thuộc vào từng loại hình DN. Và mỗi loại hình có những dặc điểm hoạt động đặc trưng. Trên giác độ nghiên cứu, luận văn xem xét cách phân loại và đặc điểm hoạt động của các loại doanh nghiệp theo một số tiêu thức sau:
* Căn cứ vào chức năng hoạt động
Căn cứ vào chức năng hoạt động có thể phân thành DN sản xuất, DN dịch vụ và DN sản xuất và dịch vụ.
- DN sản xuất: DN sản xuất thực hiện sự kết hợp các nguồn lực sản xuất để tạo ra các sản phẩm cung cấp cho thị trường.
Các sản phẩm là các vật phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Vì quá trình sản xuất thường tách rời quá trình tiêu dùng sản phẩm nên cơ cấu sản xuất của mọi DN sản xuất thường là cơ cấu khép kín, quá trình sản xuất không có sự hiện diện của khách hàng. Chức năng chủ yếu của DN sản xuất là sản xuất sản phẩm.
- DN dịch vụ: DN dịch vụ là DN thực hiện sự kết lợp các nguồn lực để tạo ra dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Dịch vụ là một hoạt động hay một lợi ích thường không cụ thể có thể phục vụ trực tiếp khách hàng hay bán kèm theo sản phẩm. Đa số dịch vụ có đặc điểm cơ bản là phi vật chất, không dự trữ được nên quá trình hình thành và cung cấp dịch vụ thường diễn ra đồng thời. Quá trình tạo ra và cung cấp dịch vụ thường gắn với sự hiện diện của khách hàng.
Để tồn tại và phát triển, con người có nhu cầu và cầu tiêu dùng cả hai loại sản phẩm và dịch vụ. Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu cầu đa dạng về dịch vụ. Vì vậy giá trị cung cấp dịch vụ ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phầm quốc nội.
- DN sản xuất và dịch vụ: Một số DN vừa thực hiện chức năng sản xuất, vừa thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ. Các DN này là các DN sản xuất và dịch vụ. Đó thường là các DN sản xuất gắn liền với tiêu thụ sản phẩm, sản xuất gắn liền với dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng,... Trong xu hướng hiện nay một số DN lớn có thể phát triển theo hướng đa dạng hoá cả các sản phẩm và dịch vụ.
* Căn cứ vào ngành và ngành kinh tế- kĩ thuật
Nếu căn cứ vào tiêu thức ngành kinh tế có thề phân thành các DN công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm,... Sâu hơn, căn cứ vào các ngành kinh tế - kĩ thuật có thể phân các DN chuyên môn hoá hẹp hơn. Ví dụ các DN công nghiệp lại được phân thành các doanh nghiệp cơ khí, luyện kim, hoá chất, dệt may, chế biến thực phẩm,... Cũng hoàn toàn tương tự khi phân các DN ngân hàng thành ngân hàng công thương, nông nghiệp, đầu tư,...
Phân loại DN theo ngành và ngành kinh tế - kĩ thuật là để nghiên cứu tính đặc thù của hoạt động và các kĩ năng quản trị của từng loại.
* Căn cứ vào hình thức pháp lí
DN không tồn tại chung chung mà luôn tồn tại dưới hình thức pháp lí cụ thể. Ở mỗi giai đoạn phát triển, mỗi nước đều xác định các hình thức pháp lí cụ thể của DN. Các hình thức pháp lý của DN nước ta hiện nay bao gồm hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh (CTHD), nhóm công ty, doanh nghiệp liên doanh (DNLD) và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DNFDI). Ngoài ra, theo cách hiểu DN hiện đại thì KD theo Nghị định 66/HĐBT cũng là một hình thức pháp lý của DN. Mỗi loại có những đặc điểm hoạt động riêng. Chẳng hạn:
- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, KD dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
- Doanh nghiệp nhà nước: Là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức CTNN, CTCPNN và CTTNHHNN [12]. Theo qui định hiện hành thì DNNN cũng hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
CTNN là DN do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý. Bên cạnh CTNN độc lập, ngày nay các tổng công ty nhà nước thành lập theo QĐ 90 và 91/1994/TTg ngày 7.3.1994,...đang chuyển dần sang hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế, công ty mẹ - công ty con ,...
CTCPNN là CTCP mà toàn bộ cổ đông là các CTNN hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật Doanh nghiệp.
CTTNHHNN một thành viên là CTTNHH do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lí và đăng kí hoạt động theo qui định của Luật Doanh nghiệp.
CTTNHHNN có hai thành viên trở lên là CTTNHH trong đó tất cả các thành viên đều là CTNN hoặc có thành viên là CTNN và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật Doanh nghiệp.
DN có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là DN mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ; Nhà nước giữ quyền chi phối đối với DN này. Còn DN có một phần vốn của Nhà nước nếu phần vốn góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm dưới 50%. CTNN giữ quyền chi phối DN khác là công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều lệ của DN khác, giữ quyền. Quyền chi phối đối với DN là quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản trị chủ chốt, việc tổ chức quản trị và các quyết định quản trị quan trọng khác của DN đó.
Ngày nay, DNNN chỉ được thành lập mới ở những ngành, lĩnh vực được phép và phải do thủ tướng quyết định thành lập.
Hạn chế chủ yếu của DNNN là sản phẩm chậm được đổi mới, cải tiến; công nghệ kỹ thuật lạc hậu, chậm thay đổi; năng suất lao động thấp, giá thành cao; tính năng động và HQKD thấp. Các nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là chưa cụ thể hoá được vai trò chủ đạo của DNNN; trình độ quản trị thấp; chưa phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền QT, trách nhiệm của đại diện sở hữu và của người sử dụng vốn; cho đến nay, hầu như mới chỉ có thưởng, chưa ai phải chịu trách nhiệm về sự hoạt động kém hiệu quả của DNNN; chính sách ưu đãi của nhà nước đã tạo thói quen ỷ lại cho DNNN.
- Doanh nghiệp tư nhân: DNTN là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN [12].
Chủ DNTN có toàn quyền quyết định về mọi hoạt động KD của DN, là đại diện theo pháp luật của DN. Chủ DNTN có thế tự thực hiện công việc QT hoặc thuê người khác làm thay mình. DNTN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: CTTNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng không vượt quá năm mươi. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn cam kết đóng góp. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định.
CTTNHH có tư cách pháp nhân và không được quyền phát hành cổ phần [13]. CTTNHH một thành viên là DN do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty có tư cách pháp nhân và không được quyền phát hành cổ phần [14]. CTTNHH hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
CTTNHH một thành viên và hai thành viên trở lên khác nhau ở các điềm chủ yếu sau:
- Số lượng và tính chất của chủ sở hữu
- Tính chất chịu trách nhiệm về tài sản và nghĩa vụ của thành viên
CTTNHH giống CTCP ở sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn KD, ở cơ chế giám sát bên trong khá có hiệu quả. CTTNHH khác CTCP ở:
- Giới hạn số thành viên và vốn pháp định khi thành lập
- Quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty cổ phần: CTCP là doanh nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằn nhau gọi là cổ phần, cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn họ đã góp cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. CTCP có tư cách pháp nhân và có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
CTCP có nhiều chủ sở hữu, mỗi chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm cao nhất bằng vốn cổ phần của họ. Bằng cách phát hành cổ phiếu, CTCP có thể thay đổi và tăng số chủ sở hữu trong quá trình kinh doanh. Trong CTCP, quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt khá rõ ràng. Hơn nữa, CTCP còn được tổ chức giám sát thường xuyên và có hiệu quả bởi thị trường chứng khoán và cơ chế hoạt động bên trong của nó.
Ngày nay, CTCP được thành lập bởi hai phương thức là thành lập mới và CPH DNNN. Cũng có hai loại CTCP là CTCP thông thường và CTCPNN. CTCP hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh: CTHD là DN trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài ra còn có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
CTHD có tư cách pháp nhân và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào [12]. CTHD hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Điểm đặc biệt là CTHD có hai loại thành viên; chi phối quyền và trách nhiệm của mỗi loại thành viên là con người chứ không phải bằng vốn góp. CTHD là công ty đối nhân.
- Nhóm công ty: Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó, lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty bao gồm các hình thức: công ty mẹ - công ty con; tập đoàn kinh tế và các hình thức khác [12].
Với công ty mẹ - công ty con, quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con; hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng.
Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Theo qui định hiện nay, Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế.
- Doanh nghiệp liên doanh và DN nước ngoài: DNLD là DN do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt nam và Chính phủ nước ngoài, hoặc là DNLD hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh [11].
DN nước ngoài là DN có 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Trước đây DNLD và DNFDI hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngày nay, các DN này cũng hoạt động theo Luật đầu tư năm 2005 [10].
Ngoài ra, nếu ít vốn và muốn tự kinh doanh ở nước ta còn có loại hình KD theo NĐ 66/HĐBT.
* Căn cứ vào hình thức sở hữu
Căn cứ vào hình thức sở hữu có:
- DN một chủ sở hữu và DN nhiều chủ sở hữu
- DNNN, DN dân doanh, DN sở hữu hỗn hợp và DN có vốn nước ngoài.
- DN có một chủ sở hữu gồm DNTN và CTTNHH một thành viên:
- Chủ sở hữu là cá nhân: DNTN
- Chủ sở hữu là tổ chức: Có một thành viên.
Ngoài ra, có thể có DNFDI và kinh doanh theo nghi định 66/HĐBT (một người sở hữu) cũng có thể là DN một chủ sở hữu.
DN có nhiều chủ sở hữu bao gồm HTX, CTTNHH có trên một thành viên, CTCP, CTHD:
- Chủ sở hữu là các cá nhân: HTX, CTTHHH có trên một thành viên, CTCP, CTHD.
- Chủ sở hữu là các tổ chức: CTTNHH trên một thành viên mà các tồ chức cùng nhau thành lập.
Ngoài ra, có thể có DNFDI và KD theo nghị định 66/HĐBT (nhiều người sở hữu) cũng có thể là DN nhiều chủ sở hữu.
* Căn cử vào mục tiêu hoạt động chủ yếu
Mặc dù phải theo đuổi đồng thời nhiều mục tiêu hình thành hệ thống (hàm) mục tiêu song luôn xác định được một mục tiêu bao trùm, lâu dài cho mọi DN và mục tiêu này thường ổn định. Xét ở góc độ này, có hai loại: DNKD và DN công ích.
- DNKD: Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau song có thể khẳng định trong cơ chế kinh tế thị trường mọi DNKD đều nhằm vào mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận ròng. Chỉ trên cơ sở này DN mới có thể đứng vững trong cạnh tranh, có điều kiện để thực hiện tái sản xuất với qui mô ngày càng lớn, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao lợi ích của người lao động và thực hiện các nghĩa vụ với xã hội.
Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ròng chi phối hoạt động của DN và từng bộ phận, cá nhân bên trong nó. Hoạt động quản lý nhà nước và QTKD đều phải hướng DNKD vào mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ròng của DN.
- DN công ích: Các DN công ích được hình thành và tồn tại trong nền kinh tế nhằm vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích xã hội, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mục tiêu này càng cần được chú trọng.
Mục tiêu tối đa hoá lợi ích xã hội chi phối hoạt động của DN công ích và từng bộ phận, cá nhân của nó. Hoạt động quản lý nhà nước và QTKD đều phải hướng DN công ích vào mục tiêu tối đa hóa lợi ích xã hội của loại DN này.
* Căn cứ vào qui mô hoạt động .
Căn cứ vào qui mô sẽ có DN qui mô lớn, qui mô vừa và qui mô nhỏ. Có thể có nhiều quan điểm về tiêu thức phân loại qui mô:
Quan điểm kỹ thuật phân loại qui mô dựa vào năng lực sản xuất phản ánh ở số lượng sản phẩm, dịch vụ mà DN có thể đáp ứng như sản phẩm, giường bệnh, số phòng phục vụ, số hành khách,... Tuy nhiên, hầu như người ta không qui ước số lượng bao nhiêu là lớn, vừa hay nhỏ.
Nước ta hiện nay phân loại qui mô dựa trên các tiêu thức vốn và lao động. Cần chú ý là hai tiêu thức số lượng vốn và lao động có thể mâu thuẫn nhau: DN có vốn lớn có thể sử dụng ít lao động và ngược lại
Các DN có cùng qui mô thường mang các đặc tính giống nhau về hoạt động và QTKD. Vì vậy phân loại DN theo qui mô có ý nghĩa lớn cả đối với việc tổ chức hoạt động và tồ chức QTDN cũng như quản lí nhà nước đối với hoạt động của các DN.
1.2. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Khái niệm về hiệu quả kinh doanh toàn diện đầy đủ, hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải xác định chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh; phải phân bổ hợp lý, quản trị khoa học và thường xuyên kiểm tra quá trình sử dụng các nguồn lực. Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh phải đánh giá được