Kinh tế thị trường tạo môi trường để các doanh nghiệp phát triển
trong mối quan hệ kinh tế đa dạng. Điều đó đã và đang diễn ra trong nền
kinh tế nước ta; ngày nay doanh nghiệp không chỉ tồn tại trong khu vực
kinh tế quốc doanh với hình thức doanh nghiệp Nhà nước, nó còn tồn tại và
phát triển với các hình thức: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu
hạn, Công ty tư nhân, Công ty liên doanh thuộc sở hữu các thành phần
kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước không những phải giữ vai trò điều chỉnh
vĩ mô nền kinh tế xã hội, tiến hành các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong
các lĩnh vực, ngành nghề có sự cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác.
Khi điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở
thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì khu vực kinh tế quốc
doanh đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, mà biểu hiện tập
trung nhất là cuộc khủng hoảng về vốn. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng
này và tồn tại được trong môi trường cạnh tranh với các thành phần kinh tế
khác, các doanh nghiệp Nhà nước phải vượt qua hai thử thách mới là: Đổi
mới phương thức tạo vốn và đổi mới cơ chế quản lý vốn để sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn huy động. Việc giải quyết hai vấn đề trên thực chất là đi tìm
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong những mô hình tổ chức
doanh nghiệp có khả năng thu hút và quản lý vốn thích ứng với cơ chế thị
trường.
66 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2396 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty cổ phần xây dựng 79, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn tại Công ty cổ phần
xây dựng 79
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường tạo môi trường để các doanh nghiệp phát triển
trong mối quan hệ kinh tế đa dạng. Điều đó đã và đang diễn ra trong nền
kinh tế nước ta; ngày nay doanh nghiệp không chỉ tồn tại trong khu vực
kinh tế quốc doanh với hình thức doanh nghiệp Nhà nước, nó còn tồn tại và
phát triển với các hình thức: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu
hạn, Công ty tư nhân, Công ty liên doanh… thuộc sở hữu các thành phần
kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước không những phải giữ vai trò điều chỉnh
vĩ mô nền kinh tế xã hội, tiến hành các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong
các lĩnh vực, ngành nghề có sự cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác.
Khi điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở
thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì khu vực kinh tế quốc
doanh đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, mà biểu hiện tập
trung nhất là cuộc khủng hoảng về vốn. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng
này và tồn tại được trong môi trường cạnh tranh với các thành phần kinh tế
khác, các doanh nghiệp Nhà nước phải vượt qua hai thử thách mới là: Đổi
mới phương thức tạo vốn và đổi mới cơ chế quản lý vốn để sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn huy động. Việc giải quyết hai vấn đề trên thực chất là đi tìm
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong những mô hình tổ chức
doanh nghiệp có khả năng thu hút và quản lý vốn thích ứng với cơ chế thị
trường.
Công ty cổ phần xây dựng 79 là một trong những mô hình doanh
nghiệp có những ưu thế về tạo vốn và quản lý sử dụng vốn phù hợp với cơ
chế đó.
Xuất phát từ thực tế trên, sau thời gian thực tập tại Công ty được sự
giúp đỡ của Giám đốc - Chủ tịch hội đồng quản trị Cô Khúc Thị Lâm, Anh
Đinh Xuân Nam – Kế toán trưởng cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô
3
giáo Trần Thị Thanh Tú, em đã lựa chọn đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần xây dựng 79".
Chuyên đề có kết cấu như sau:
Chương I: Vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần
xây dựng 79.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty
cổ phần xây dựng 79
Do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề của em khó tránh khỏi được
nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để chuyên
đề này được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn!
4
CHƯƠNG I
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1. Doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích tối
đa hóa giá trị tài sản chủ sở hữu.
Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? là ba câu hỏi đặt
ra mà bất cứ doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường cần phải
quan tâm. Trong nền kinh tế thị trường, dưới áp lực của sự cạnh tranh gay gắt,
cùng với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều thành phần kinh
tế, các doanh nghiệp đều nhằm tìm ra lời giải đáp cho ba câu hỏi cơ bản trên
với mục đích thu được lợi nhuận cao nhất. Nền kinh tế thị trường cho phép
mọi doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo khuôn khổ của pháp luật.
Chính sự tự do ấy đã tạo nên các quan hệ kinh doanh, biểu hiện thông qua
quan hệ mua bán trên thị trường và thái độ cư sử của từng thành viên nhằm
dẫn dắt thị trường tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Việc quyết định sản xuất cái gì phụ thuộc vào quan hệ giữa người
mua và người bán. Họ gặp nhau trên thị trường để tìm hiểu xem một bên
thị trường cần gì và một bên là thị trường đáp ứng gì cho mình. Từ thị hiếu
nhu cầu trên thị trường và dựa vào khả năng cung ứng của bản thân, các
doanh nghiệp tự quyết định mình sản xuất cái gì.
Sản xuất bằng phương thức nào được quyết định bởi sự canh tranh
giữa các nhà sản xuất. Cách duy nhất để doanh nghiệp được về giá cả và
thu được nhiều lợi nhuận là giảm chi phí đến mức tối thiểu thông qua áp
5
dụng phương thức sản xuất có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng
suất và đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Để giải quyết câu hỏi thứ ba, đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu
kỹ các chỉ tiêu về cung cầu giá cả, số lượng, chất lượng cũng như hình thức
cạnh tranh trên thị trường. Họ phải xác định được khách hàng của mình là
ai, họ cần gì và làm thế nào để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng…
Có thể thấy mọi hoạt động của doanh nghiệp, dưới bất kỳ hình thức
nào về bản chất đều nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của thị trường và
thu được lợi nhuận phù hợp.
1.2. Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về vốn
Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp. Để định nghĩa “vốn là gì?” các nhà kinh tế đã tốn
rất nhiều công sức và mỗi người đều có những định nghĩa riêng, theo quan
điểm riêng của mình.
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất, vốn đã
được khái quát hóa thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng
dư và là ”một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa về vốn của Marx
có một tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của
vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị cho dù nó có thể được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau: nhà cửa, tiền của…Vốn là giá trị đem lại giá trị
thặng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx đã
chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ
có kinh doanh sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Còn theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao gồm:
vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng
hóa đã sản xuất để sản xuất ra các hàng hóa khác, vốn tài chính là các tiền
và các giấy tờ có giá của doanh ngiệp.
6
Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với tài sản của
doanh nghiệp. Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất
cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh
nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp.. Bất cứ
doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện
những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm
nguyên vật liệu, trả lãi vay, nộp thuế…đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được liên tục, chi phí mua công nghệ và máy móc
thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh
doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau quá
trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền ban đầu đã
được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình này diễn ra
liên tục bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Còn trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa.
Nó giống các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc
điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một
thời gian nhất định. Cái giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính
nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu
chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh lời.
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật
chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho
quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong
quá trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản
xuất liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá
trình sản xuất dầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó có một định
nghĩa chính xác va hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên có thể hiểu mọt cách khái
quát về vốn như sau:
7
Vốn là toàn bộ các giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất
tiếp theo. Vốn là giá trị tạo ra giá trị thăng dư.
1.2.2. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng các
nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó để tài trợ cho tài sản của nó.
Cơ cấu vốn của doanh nghiệp bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
bao gồm: Vốn điều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận và
từ các quỹ của doanh nghiệp, vốn do nhà nước tài trợ (nếu có). Vốn chủ sở
hữu được xác định là phần còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi
đã trừ toàn bộ nợ phải trả.
- Nợ phải trả: là những khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm có trách nhiệm phải thanh
toán cho các tác nhân kinh tế như: nợ tiền vay ngân hàng, nợ các tổ chức
kinh tế khác, thuế phải nộp cho nhà nước, phải trả công cho nhân viên.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn được
phân bổ, đầu tư cho các tài sản cố định và tài sản lưu động để tiến hành sản
xuất. Biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định và tài sản lưu động là số tiền bỏ
ra để đầu tư cho các tài sản này, đó chính là vốn cố định và vốn lưu động.
Và hiệu quả sử dụng tài sản cũng chính là hiệu quả sử dụng vốn đã bỏ ra để
đầu tư cho các tài sản đó. Trong luận văn này, chúng ta nghiên cứu các giải
pháp để sử dụng vốn cố định và vốn lưu động sao cho có hiệu quả hơn.
Để nghiên cứu vấn đề này, trước hết ta cần hiểu thế nào là vốn cố định
và thế nào là vốn lưu động.
Vốn cố định:
Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của cống
tác quản lý tài chính daonh nghiệp. Khi tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện
vật chất của nó – tài sản cố định và được tuân theo tính quy luật nhất định.
8
Vì vậy để quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn cố định trước hết cần nghiên
cứu tính chất và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Trong nền sản xuất hành hóa, để tiến hành sản xuất sản phẩm, bao giờ
cũng có các yếu tố: sức lao động, tư liệu sản xuất và tiền. Căn cứ vào tính
chất và tác dụng tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất được chia
làm hai bộ phận: đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tài sản cố định là
những tư liệu lao động chủ yếu dược tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc, các chi phí mua bằng
phát minh sáng chế…
Khác với đối tượng lao động, đặc điểm cơ bản của tài sản cố định-những
tư liệu lao động chủ yếu là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào
nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn
song chúnhg vẫn giữ nguyên hình thái biểu hiện vật chất ban đầu. Vhỉ khi nào
chúng đã bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt
kinh tế thì khi đó chúng mới cần được thay thế đổi mới.
Bên cạnh những đặc điểm nêu trên, một tư liệu lao động chỉ đượccoi là
tài sản khi nó là sản phẩm của lao động. Do đó, tài sản cố định không chỉ có
giá trị sử dụng mà còn có giá trị. Nói cách khác tài sản cố định phải là một
hàng hóa như mọi hàng hóa thông thường khác. Thông qua mua bán trao đổi
nó có thể chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể
khác trên thị trường tư liệu sản xuất. Việc quản lý tài sản cố định trên thực tế
là một công việc phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản lý về tài chính kế
toán, người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn của một
tài sản cố định. Thông thường một tư liệu lao động phải được đồng thời thỏa
mãn hai tiêu chuẩn sau đây mới được coi là tài sản cố định:
+ Phải có thời gian sử dụng tối thiểu một năm trở lên.
+ Phải có giá trị tối thiểu đến một mức độ nhất định. Riêng tiêu
chuẩn này thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp vói tình hình thời giá của
9
từng thời kỳ. Hiện nay theo quy định là TSCĐ phải có trị giá từ 5 triệu
đồng trở lên.
Qua những phân tích nêu trên, có thể rút ra định nghĩa về tài sản cố
định trong doanh nghiệp như sau:
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ
yếu mà đặc điểm của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong
quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong
lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá
thành sản phẩm của chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, để mua sắm, xây dựng tài sản
cố định trước hết cần phải có một số vốn nhất định. Vốn tiền tệ ứng trước
để mua sắm, xây dựng tài sản cố định hữu hình hoặc những chi phí đầu tư
cho những tài sắm cố định không có hình thái vật chất được gọi là vốn cố
định của doanh nghiệp.
Là khoản tiền ứng trước về tài sản cố định, quy mô của vốn cố định
sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc điểm vận động của tài
sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố
định. Trên ý nghĩa của mối liên hệ này, có thể khái quát những nét đặc thù
về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
- Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm
này là do tài sản cố định có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất, vì thế
vốn cố định-hình thái biểu hiện bằng tiền của nó được tham gia vào các chu
kỳ sản xuất tương ứng.
- Vốn cố định được luân chuyển từng phần. Khi tham gia vào quá
trình sản xuất, giá trị sử dụng của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định
cũng được tách ra làm hai phần: một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất
sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng giảm dần giá trị sử
dụng tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên nghịch chiều đó, cũng là lúc tài
sản cố định cũng hoàn thành một vòng luân chuyển.
10
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về vốn cố định:
Vốn cố định của một doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư
ứng trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng
phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài
sản cố định hết thời gian sử dụng.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng của
vốn đầu tư nói riêng, của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của vốn cố định
và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng đến trình độ trang bị
kỹ thuật. Do ở vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo
tính quy luật riêng nên việc quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm
của công tác tài chính doanh nghiệp.
Vốn lưu động:
Trong phần trên ta đã biết rằng, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động Đúng vậy, mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành
sản xuất kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn phải có đối tượng lao
động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động
sẽ thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm và được
bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ
phận. Một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản
xuất được diễn ra liên tục (nguyên, nhiên vật liệu), một bộ phận khác chính
là những vật tư đang trong quá trình chế biến (sản phẩm chế tạo, bán thành
phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu
động. Để phục vụ cho qua trình sản xuất còn cần phải dự trữ một số công
cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế, vật đóng gói cũng được coi là tài sản lưu
động. Mặt khác quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn
liền vói quá trình lưu thông. Trong quá trình lưu thông còn phải tiến hành
một số công việc như chọn lọc đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh
11
toán…Do đó hình thành một số khoản hàng hoá và tiền tệ, vốn trong thanh
toán….
Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm
trong quá trình lưu thông thay chỗ cho nhau vận động không ngừng nhằm
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Như vậy, doanh nghiệp nào cũng cần phải có một số vốn thích đáng
để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi
là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động được chuyển hóa qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu
là tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hóa và cuối cùng trở về hình thái tiền tệ
ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục không
ngừng, cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng , hoàn thành
một vòng tuần hòan sau một chu kỳ sản xuất.
Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản
lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được tiến
hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị
ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn
sau một chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá
trình tái sản xuất. Muốn cho qua trình tái sản xuất được diễn ra liên tục,
doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau
đó, khiến cho các hình thái mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như
vậy sẽ khiến cho chuyển hóa của vốn được thuận lợi. Nếu như doanh
nghiệp nào đó không đủ vốn thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn, và
do đó quá trình sản xuất cũng gặp trở ngại hoặc gián đoạn..
Việc tổ chức và quản lý vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh
doanh là rất quan trọng. Người quản lý phải biết phân phối nguồn vốn lưu
động trong từng khâu dự trữ, sản xuất, lưu thông một cách hài hòa, không
để vốn lưu động ứ thừa quá nhiều ở bất kỳ khâu nào. Doanh nghiệp sử
12
dụng vốn lưu động càng có hiệu quả thì càng sản xuất ra được nhiều sản
phẩm, điều đó thể hiện tốt sự kết hợp hài hòa quá trình mua sắm, sản xuất
và tiêu thụ.
1.3. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường.
1.3.1.Khái niệm
Mục tiêu chủ yếu của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường là tối đa hóa giá trị tài sản chủ sở hữu. Vì vậy,
sử dụng vốn một cách có hiệu quả có nghĩa là kinh doanh có hiệu quả, đạt
lợi nhuận cao.
Hiệu quả sử dụng vốn được hiểu như sau:
- Với một số vốn nhất định, doanh nghiệp phải đạt được lợi nhuận.
- Ngoài khả năng của mình, doanh nghiệp phải năng động tìm nguồn
tài trợ để tăng số vốn hiện có nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, gia tăng
mức lợi nhuận so với khả năng ban đầu.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp còn thể hiện ở các
chỉ tiêu về hiệu quả theo thu nhập, khả năng thanh toán, chỉ tiêu về sử
dụng và phân bổ vốn.
1.3.2.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh
nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần phải có một hệ thống
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo phản ánh và đánh giá
được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu vốn:
Vốn của doanh nghiệp được đầu tư chủ yếu vào TSCĐ và TSLĐ.
Với một lượng vốn nhất định doanh nghiệp muốn thu được kết quả cao thì
cần phải có một cơ cấu vốn hợp lý. Vì vậy, ta phải xem xét đến vốn đầu tư
vào tài sản ra sao, hợp lý hay chưa hợp lý, ta có:
Hiệu quả sử dụng tài = Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
13
sản Tổng tài sản
Công thức trên cho biết một đồng vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng
có bao nhiêu đầu tư vào TSCĐ, có bao nhiêu đầu tư vào TSLĐ. Tuỳ theo
từng loại hình sản xuất mà tỷ số này ở mức độ cao thấp khác nhau, nhưng
bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao
bấy nhiêu. Nếu bố trí cơ cấu vốn làm mất cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ dẫn
đến t