Trước tình hình kinh tếxã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan
xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơvà thời cơ. Đểtiến hành CNH, HĐH
đất nước cần phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn
lực mà quan trọng nhất là vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sửdụng nguồn vốn
bên ngoài làm chủlực, nguồn vốn trong nước làm bổtrợcho sựphát triển, tận
dụng lợi thếchuyển giao công nghệtiên tiến, rút ngắn thời gian bắt kịp với các
nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa làm chủ đạo, bằng
cách này tốc độphát triển thường chậm, nhưng hạn chế được sựphụthuộc vào
bên ngoài, tạo thếchủ động trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, đảm
bảo sựphát triển vững chắc của nền kinh tếtrong lâu dài.
Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thếgiới,
Châu Á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải
nhiều khó khăn trởngại. Cơsởvật chất kỹthuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình
độ đội ngũcán bộlao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động
kinh doanh còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thếmởcửa hợp tác, đểvững
bước trên con đường phát triển CNXH theo định hướng của Đảng, chúng ta
phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu tận dụng khai thác mọi nguồn lực
trong và ngoài nước. Với chủtrương đềra ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần
thứVIII và được khẳng định lại ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứIX:
“Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khảnăng có thểtranh thủbên
ngoài”. Nhưng bằng cách nào đểkhơi thông thu hút được nguồn lực trong điều
kiện nền kinh tếcạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng sựra đời của
các trung gian tài chính, đặc biệt là các NHTM.
95 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần xuât nhập khẩu chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác huy động vốn tại
NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội”
LỜI MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trước tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan
xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơ và thời cơ. Để tiến hành CNH, HĐH
đất nước cần phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn
lực mà quan trọng nhất là vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sử dụng nguồn vốn
bên ngoài làm chủ lực, nguồn vốn trong nước làm bổ trợ cho sự phát triển, tận
dụng lợi thế chuyển giao công nghệ tiên tiến, rút ngắn thời gian bắt kịp với các
nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa làm chủ đạo, bằng
cách này tốc độ phát triển thường chậm, nhưng hạn chế được sự phụ thuộc vào
bên ngoài, tạo thế chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, đảm
bảo sự phát triển vững chắc của nền kinh tế trong lâu dài.
Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới,
Châu Á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải
nhiều khó khăn trở ngại. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình
độ đội ngũ cán bộ lao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động
kinh doanh còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thế mở cửa hợp tác, để vững
bước trên con đường phát triển CNXH theo định hướng của Đảng, chúng ta
phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu tận dụng khai thác mọi nguồn lực
trong và ngoài nước. Với chủ trương đề ra ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII và được khẳng định lại ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX:
“Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên
ngoài”. Nhưng bằng cách nào để khơi thông thu hút được nguồn lực trong điều
kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng sự ra đời của
các trung gian tài chính, đặc biệt là các NHTM.
Là một trong những NHTM CP đi đầu trong lĩnh vực huy động vốn, vừa
thực hiện chức năng kinh doanh, vừa thực hiện vai trò thành viên đóng góp
một phần vốn điều hoà cho cả hệ thống NHTM CP XNK Việt Nam. Tuy nhiên
công tác này vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện. Để thực hiện tốt
vai trò và chức năng của mình việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để làm tốt
hơn công tác huy động vốn tại ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.
Là một sinh viên chuyên ngành tài chính tín dụng, bằng những vốn kiến
thức đã được tiếp thu ở trường cộng với sự hiểu biết có hạn từ thực tế trong
quá trình thực tập tại NHTM CP XNK Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi
nhánh Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định nội dung, vai trò của NHTM thông qua hoạt động
huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, dịch vụ, khoá
luận nghiên cứu thực trạng hoạt động của NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội
nói chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng. Từ đó, đưa ra một số giải pháp,
kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn tại Eximbank Hà Nội, đáp ứng vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn.
3- Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những lý luận cơ bản về vốn và
sử dụng vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong đó trọng tâm là nâng
cao hiệu quả công tác huy động vốn.
Phạm vị nghiên cứu là khảo sát hoạt động của NHTM CP XNK Hà Nội
trong 3 năm từ 2002 đến 2004. Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn
tại Eximbank Hà Nội.
4- Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với
các học thuyết kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng
hợp…
5- Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận chia thành 3 chương.
Chương 1: Lý luận chung về công tác huy động vốn trong hoạt động
kinh doanh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi
nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn
tại NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài
với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng
thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và
thực hiện các chức năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh
toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát
triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân
hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây
cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này
đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân
hàng được phân thành hai nhóm: thứ nhất là nhóm ngân hàng được được phép
phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau chuyển thành NHTW.
Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian
tín dụng và trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế .
Ngày nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là
ngân hàng hai cấp trong đó có Việt Nam: NHTW là chủ thể thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân
hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực
hiện chức năng kinh doanh tiền tệ.
Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau
về NHTM. Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác
định : “ Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán’’. Luật các TCTD được bổ sung sửa đổi năm
2004, điều 20 giải thích: “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo qui
định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động ngân
hàng.” và “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã đạt đến trình độ cao của
kinh tế hàng hoá, ngân hàng đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thống thần kinh,
hệ thống tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể
cất cánh, phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh.
Ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Do đó, vai trò của
ngân hàng thương mại được thể hiện ở một số mặt sau:
1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Khi nhắc tới vai trò của ngân hàng thương mại thì không thể không
nhắc tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các
chủ thể trong nền kinh tế. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
điều đầu tiên các chủ doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có
vốn thì doanh nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà lẽ ra có thể
thu được.
Do nhược điểm của thị trường tài chính dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên
tục của chu trình tài chính như sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn
qua vấn đề thời gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh
toán, …NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh vực tài chính
tiền tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên. NHTM chính là người
đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi
thành phần kinh tế … hình thành nên quỹ cho vay và sử dụng chúng để đáp
ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Là một kênh phân phối vốn có hiệu quả
NHTM đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất
kinh doanh cải tiến qui trình công nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động để
có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Với
khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu
cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi nhuận các doanh
nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào của mình mà yếu tố đầu vào
quan trọng nhất chính là vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
kinh doanh vì nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà phải biết khai
thác các nguồn vốn khác tài trợ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng
của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó. Như vậy, ngân
hàng chính là cầu nối đưa doanh nghiệp đến với thị trường giúp doanh nghiệp
tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó
phát huy hiệu quả một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị
trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.
1.1.2.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Nếu NHTW có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông
qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất,… thì các NHTM
một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các cộng cụ này mặt khác nó còn tham
gia điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức
kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua
hoạt động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có
liên quan đến việc hoạch định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHTW,
giúp NHTW có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong
từng thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn
định.
1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trên thế giới, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc lập thường
xuyên tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực :
kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, …trong đó
quan hệ kinh tế thường chiếm vị trí quan trọng. Áp lực cạnh tranh buộc nền
kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và
toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài chính. Nhưng làm thế nào để
có thể hoà nhập nền kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới ?
Câu hỏi này sẽ được giải đáp thông qua vai trò của hệ thống NHTM với hàng
loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát triển: thanh toán
quốc tế, kinh doanh ngoại hối, uỷ thác đầu tư, … Hệ thống NHTM trong nước
đã điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính
quốc tế, đưa nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế.
1.1.3. Các chức năng của NHTM
1.1.3.1. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để
thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc nhập tiền vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Việc
nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu chi trên tài khoản tiền gửi của khách
hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện vai trò là trung gian thanh toán. Mặt
khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh tế
có nhiều hạn chế đó là rủi ro phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc
biệt là với khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân
hàng.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động kinh tế. Trước hết thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp
phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn.
NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh chóng
và thuận tiện như : séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán, thanh
toán điện tử, thanh toán bù trừ,… cho phép khách hàng lựa chọn hình thức
thanh toán mà theo họ là hiệu quả và an toàn nhất. Điều này góp phần tăng
nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá
trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác, chức năng này còn góp phần tăng thu nhập
cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh toán làm tăng uy tín của ngân
hàng và tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM nên các
NHTM không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng
thanh toán đáp ứng nhu cầc của khách hàng ngày càng tốt hơn.
1.1.3.2. Chức năng làm trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng là khái niệm cơ bản và đặc trưng nhất
của NHTM và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Ngân hàng làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối giữa
người thừa vốn và người thiếu vốn”. Nói cách khác, ngân hàng sau khi huy
động được các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế sẽ hình thành
nên quỹ cho vay của ngân hàng và sẽ sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn
của các chủ thể trong nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức
năng này ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng ngân hàng của NHTM đi vay là để cho
vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền
tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ không phải là một tổ chức nào khác
trong nền kinh tế mà lại là ngân hàng đứng ra thực hiện chức năng này vì ngân
hành là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, họ có đầy đủ kinh
nghiệm và sự hiểu biết về tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế do vậy
họ có thể khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính đó là
sự không khớp nhịp giữa cung cầu tín dụng về thời hạn và số lượng tức là
thông qua việc thu hút tiền gửi với một số lượng lớn ngân hàng có thể giải
quyết mối quan hệ giữa cung cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và
thời gian cho vay .
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo ra lợi
ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi
vay và đảm bảo lợi ích cho nền kinh tế.
1.1.3.3. Chức năng tạo tiền
Vào cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ thông ngân hàng hai cấp được hình
thành trong đó NHTW có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ
còn các NHTM thực hiện vai trò kinh doanh tiền tệ. Khi đó, các NHTM thông
qua chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng đã tạo ra tiền ghi
sổ trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Nói cách
khác, nhờ hoạt động trên hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền
mặt .
Các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một
khoản tiền gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ NHTW thông qua
việc cấp tín dụng cho các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng. Bất kỳ ngân
hàng nào được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch vụ
thanh toán cho khách hàng đều có khả năng tạo tiền. Sự kết hợp giữa chức
năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng làm cho hệ thống NHTM có
khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Từ một khoản tiền gửi ban đầu thông qua
làm chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng để cho vay, số tiền cho
vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong
khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là
một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán
dịch vụ… tức là ngân hàng đã tạo tiền. Còn ngược lại khi ngân hàng huy động
được số vốn mà chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền. Sự tạo tiền của
NHTM chỉ xảy ra khi mọi hoạt động kinh doanh của NHTM thực hiện bằng
chuyển khoản ghi nợ cho tài khoản nay và ghi có cho tài khoản khác có liên
quan.
Thực hiện chức năng tạo tiền, với việc cho vay không có sự xuất hiện
của tiền mặt, các NHTM đã giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu thông,
tiết kiệm được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp chính sách
ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp, làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ
sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi NHTM thực hiện tốt
chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán góp phần làm tăng nguồn vốn tín
dụng, mở rộng qui mô hoạt động của ngân hàng.
1.1.4. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Nghiệp vụ tài sản nợ
Tài sản nợ bao gồm những khoản nợ mà ngân hàng nợ thị trường và vốn
của ngân hàng. Các khoản nợ được thị trường biểu hiện thông qua những
khoản vốn mà dân chúng gửi vào NHTM hoặc NHTM đi vay các chủ thể
trong nền kinh tế như các cá nhân, các hộ gia đình, doanh nghiệp, nước ngoài,
các trung gian tài chính khác, NHTW…
a-Vốn tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động huy động vốn của NHTM dưới
dạng nhận các khoản tiền gửi của DN vào ngân hàng để thanh toán nhằm mục
đích an toàn hay hưởng lãi. Đồng thời ngân hàng còn huy động các khoản tiền
nhàn rỗi trong dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của TCKT và cá
nhân trong quá trình kinh doanh của mình gửi vào ngân hàng để chủ động
thanh toán hoặc sinh lời. Tuỳ theo tính chất nhàn rỗi của các nguồn vốn các tổ
chức, cá nhân có thể gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn vào ngân hàng. Ngân
hàng có thể sử nguồn vốn này vào cho vay các thành phần kinh tế.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của
NHTM. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành hoặc tạm thời nhàn rỗi của dân cư
gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi theo định kỳ hoặc tiết kiệm chi tiêu
cho tương lai. Đây là nguồn vốn quan trọng có tính chất ổn định cao và có qui
mô lớn trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Khách hàng có thể gửi tiết
kiệm không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tuỳ theo nhu cầu sử dụng.
b- Phát hành giấy tờ có giá
Nghiệp vụ này được thực hiện mang tính chất thời vụ, nó phát sinh khi
có nhu cầu về vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhằm
thu hút các khoản vốn trung dài hạn để đầu tư để đầu tư vào nền kinh tế, do
huy động có thời hạn nên nguồn vốn này tăng cường tính ổn định vốn trong
hoạt động kinh doanh của NHTM. Bao gồm: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu
ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi.
c-Vốn đi vay
Tuy nguồn tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của NHTM nhưng sau
khi đã sử dụng hết vốn và tiền gửi mà ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả
của khách hàng… NHTM có thể đi vay ở NHTW, ở các NHTM khác trên thị
trường tiền tệ, vay ở các tổ chức nước ngoài…Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ
trọng nhỏ có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng
nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt
động bình thường.
NHNN có thể cho các NHTM vay dưới các hình thức : cho vay chiết
khấu, cho vay cứu cánh và cho vay theo thời vụ.
- Cho vay chiết khấu: các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu
và trở thành tài sản của họ khi cần thiết NHTM sẽ mang những thương phiếu
này đến xin chiết khấu tại NHTW. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHNN
trong từng thời kỳ và NHNN chủ yếu chỉ cho vay ngắn hạn để giải quyết nhu