Sang thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số
sống ở nông thôn. Vì vậy nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí quan trọng
trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước ta trong
quá trình lãnh đạo cách mạng đã hết sức chú ý tới lĩnh vực này, luôn coi nông dân
là đội quân chủ lực của cách mạng, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, coi nông
thôn là lĩnh vực cần ưu tiên phát triển.
Trong thế kỷ mới, xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu nông sản nói
riêng của Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và cả những thách thức mới, cần
nhanh chóng có những biện pháp thích hợp. Đặc biệt, trong giai đoạn 2003-2010,
khi nước ta hội nhập sâu hơn vào AFTA, APEC và gia nhập WTO thì nếu không
có những biện pháp hiệu quả sẽ là trở lực đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá
nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Trong thời gian thực tập tại Viện kinh tế nông nghiệp, qua nghiên cứu tình
hình sản xuất và xuất khẩu nông sản. Với các lợi thế về đất đai, lao động, các điều
kiện sinh thái. nhưng khối lượng và kim ngạch nông sản xuất khẩu của Việt Nam
còn khiêm tốn và bộc lộ nhiều hạn chế. Từ thực tế đó em lựa chọn đề tài: “Một số
giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt
Nam”, để nghiên cứu t ừ đó tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu các mặt hàng nông sản trong thời gian tới.
Nội dung của chuyên đê sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
Những vấn đề chung về xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Thực trạng về hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của
Việt Nam trong thời gian qua
Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của
Việt Nam trong thời gian tới
125 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2288 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nhằm thúc đẩy
xuất khẩu các mặt hàng
nông sản chủ lực của Việt
Nam trong thời gian tới
Lời mở đầu
ang thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số
sống ở nông thôn. Vì vậy nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí quan trọng
trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước ta trong
quá trình lãnh đạo cách mạng đã hết sức chú ý tới lĩnh vực này, luôn coi nông dân
là đội quân chủ lực của cách mạng, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, coi nông
thôn là lĩnh vực cần ưu tiên phát triển.
Trong thế kỷ mới, xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu nông sản nói
riêng của Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và cả những thách thức mới, cần
nhanh chóng có những biện pháp thích hợp. Đặc biệt, trong giai đoạn 2003-2010,
khi nước ta hội nhập sâu hơn vào AFTA, APEC và gia nhập WTO thì nếu không
có những biện pháp hiệu quả sẽ là trở lực đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá
nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Trong thời gian thực tập tại Viện kinh tế nông nghiệp, qua nghiên cứu tình
hình sản xuất và xuất khẩu nông sản. Với các lợi thế về đất đai, lao động, các điều
kiện sinh thái... nhưng khối lượng và kim ngạch nông sản xuất khẩu của Việt Nam
còn khiêm tốn và bộc lộ nhiều hạn chế. Từ thực tế đó em lựa chọn đề tài: “Một số
giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt
Nam”, để nghiên cứu từ đó tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu các mặt hàng nông sản trong thời gian tới.
Nội dung của chuyên đê sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
Những vấn đề chung về xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Thực trạng về hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của
Việt Nam trong thời gian qua
Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của
Việt Nam trong thời gian tới
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Đình
Đào chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế thương mại và GV. Nguyễn Thanh Phong,
TS.Nguyễn Đình Long Viện phó Viện Kinh tế nông nghiệp cùng thầy cô giáo và
S
các bạn đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp
này.
Chương I
Những vấn đề chung về xuất khẩu các mặt
hàng nông sản
I. Hàng nông sản và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ
lực của Việt Nam
1. Ngành hàng nông sản
1.1. Vị trí vai trò của nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế
Trong những năm vừa qua mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do biến động của
thời tiết, đặc biệt là sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế lớn làm cho
thị trường nông sản thế giới có nhiều biến động giá nhiều mặt hàng nông sản bị sụt
giảm gây khó khăn cho người nông dân. Nhưng vượt lên trên tất cả sản xuất nông
nghiệp Việt Nam vẫn duy trì được phát triển và đạt được những thành quả đáng
khích lệ. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp là một trong những tiền đề để ổn
định tình hình kinh tế xã hội nước ta.
Thực tiễn đã chứng minh rằng nông nghiệp, nông thôn và nông dân là nơi sản
sinh ra và cung cấp nhân lực, vật lực, tài lực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc qua nhiều triều đại, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nhưng là một nông nghiệp kém phát
triển, lao động thủ công, kỹ thuật canh tác lạc hậu, sản xuất phân tán, manh mún,
lệ thuộc lớn và thiên nhiên, năng xuất cây trồng vật nuôi quá thấp, lương thực thực
phẩm không đủ ăn phải nhập khẩu hàng vạn tấn mỗi năm.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước rõ nét nhất là chỉ thị 100 của ban Bí
thư TW Đảng khoá V, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị TW Đảng khoá VI đã mở
đường cho nông nghiệp, nông thôn tiến lên một bước mới. Mở ra ra con đường
phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá.Thực tiễn đã chứng minh sau hơn 15 năm đổi mới, nền nông nghiệp nước ta
có một bước tiến dài chưa từng thấy trong lịch sử. Với những thành tựu hết sức nổi
bật; tổng sản lượnglương thực năm sau cao hơn năm trước, năm 1990 sản lượng
lượng thực là 21,5 triệu tấn năm 2002 đã đạt tới 35,4 triệu tấn, lương thực bình
quan đầu người năm 2002 là 456, 4 kg. Nông nghiệp dã dạt được mức tăng trưởng
khá và toàn diện trên mọi lĩnh vực bình quân 4,5% năm. Từ chỗ thiếu đói trầm
trọng tiến tới tự túc hoàn toàn và có xuất khẩu. Nhiều mặt hàng nông sản dã vươn
lên chiếm vị tí cao trên Thế giới như; gạo đứng thứ 2, cà phê đứng thứ 3, điều
đứng thứ 2 và trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực.
Nói một cách khác thì nông nghiệp là ngành khởi đầu, đóng vai trò chủ đạo
trong quá trình CNH – HĐH đất nước, sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp rất
phong phú, phối hợp từ công nghệ đơn giản nhất đến những kỹ thuật tiên tiến.
Ngành nông nghiệp có khả năng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động,
tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho các ngành công nghiệp khác góp
phần nâng cao mức sống và ổn định chính trị xã hội cần thiết cho sự phát triển
kinh tế. Nông nghiệp liên quan chặt chẽ với sự phát triển của các ngành công
nghiệp khác, bởi vì nông nghiệp là ngành hàng đầu của nền kinh tế nó sẽ cần một
khối lượng nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế tạo điều kiện
để đầu tư phát triển các ngành kinh tế này và ngược lại, ngành công nghiệp lớn
mạnh sẽ là động lực để ngành nông nghiệp tạo đà đi lên.
1.2. Ngành hàng nông sản trong cơ cấu kinh tế
Vị trí của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của đất nước, nhưng dù ở giai đoạn nào thì nhiều loại sản phẩm của
nông nghiệp không thể thay thế được sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất
khác. Với tư cách là một bộ phận hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân, sự phát
triển nông nghiệp có quan hệ tương hỗ với sự phát triển của công nghiệp và dịch
vụ. Đó là nguyên tắc để xác định vị trí của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc
dân nói chung và của các mặt hàng nông sản trong các mặt hàng khác nói riêng.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nông nghiệp được phản ánh trước hết ở tỷ phần
tương quan đóng góp của các ngành trong GDP và sự thay đổi của chúng.
Năm 1986 là năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới qua Biểu 1 ta thấy cơ
cấu GDP trong những năm vừa qua đã có sự chuyển biến tích cực nhưng còn chậm
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành
nông – lâm – thuỷ sản truyền thống. Tỷ trọng công nghiệp từ 28,88% năm 1986,
tới 28,76% năm 1995 và 38,55 năm 2002; ngành dịch vụ tương ứng là 33,06%,
44,06% và 38,46 giảm dần tỷ trọng nông – nghiệp – thuỷ sản từ 38,06% năm 1986
xuống 27,18% năm 1995 và 22,99% năm 2002.
Biểu 1: Tốc độ tăng và cơ cấu GDP theo ngành kinh tế (%)
Nă
m
Tốc độ tăng (tính theo giá so sánh) Cơ cấu (tính theo giá thực tế)
Tổn
g số
Nông-
lâm
nghiệp -
Thuỷ sản
Công
nghiệp &
Xây dựng
Dịch
vụ
Tổn
g số
Nông- lâm
nghiệp -
Thuỷ sản
Công
nghiệp &
Xây dựng
Dịch
vụ
198
6
199
5
199
6
199
7
199
8
199
2,84
9,54
9,34
9,15
5,76
4,77
6,97
6,89
7,04
2,99
4,80
4,40
4,33
3,53
5,23
4,63
2,98
4,06
10,84
13,6
14,46
12,62
8,33
7,68
10,07
10,39
9,44
-2,27
9,83
8,80
7,14
5,08
2,25
5,32
6,10
6,54
100
100
100
100
100
100
100
100
100
38,06
27,18
27,76
25,77
25,78
25,43
24,53
23,25
22,99
28,88
28,76
29,73
32,08
32,49
34,49
36,73
38,12
38,55
33,06
44,06
42,51
42,15
41,73
40,08
38,74
38,63
38,46
9
200
0
200
1
200
2
Nguồn: Kinh tế 2002 – 2003 Việt Nam và Thế giới – Thời báo kinh tế Việt
Nam ( tr.54)
Xu thế chung của các nước trong quá trình công nghiệp hoá là giảm dần tỷ
trọng của nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế, đó là xu thế tiến bộ. Nhưng tỷ
trọng giữa 3 ngành chủ chốt trong GDP của chúng ta từ năm 1995 đến năm 2002
thay đổi rất ít, tỷ trọng này chỉ thay đổi nhiều trong những năm đầu đổi mới. Tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm xuống nhưng vị trí của nông nghiệp
vẫn được củng cố. Nông nghiệp vẫn có tác động tích cực đến các mặt kinh tế
chính trị xã hội. Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong thời gian qua mặc dù đi
đúng hướng nhưng còn quá chậm và chưa đạt được mục tiêu mong muốn. Cơ cấu
đó chưa đủ sức giúp tạo ra nền tảng cho sự phát triển kinh tế và mở rộng giao lưu
quố tế, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và Thế giới. Chính vì vậy trong những
nămvừa qua Chính phủ đã có những quyết sách lớn trong phát triển nông nghiệp
đặc biệt là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản như; Nghị quyết
09/2000/NQ – CP và 05/2001/ NQ – CP về chuyể đổi cơ cấu kinh tế và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp. Và đặc biệt mới đây là Quyết định số 80/2002/QĐ - TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa doanh
nghiệp và nông dân mở ra một hình thức hợp tác mơí giữa doanh nghiệp và nông
dân. Bằng chứng là trong những năm vừa qua tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu
đang có những thay đổi tích cực giảm dần về tỷ trọng nhưng tăng lên về giá trị.
Biểu 2: Tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1996 – 2002(%)
Nhóm hàng 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
CN nặng và khoáng chất
CN nhẹ -Thủ công nghiệp
Nông – Lâm – Thuỷ sản
26,05
28,96
44,99
26,90
36,71
36,39
27,87
36,62
35,51
33,04
34,08
32,52
35,60
34,72
29,68
37,60
36,50
25,90
35,87
35,50
28,63
Nguồn: Vụ thống kê - Bộ Thương mại
Xét về tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chúng ta thấy rằng từ
năm 1996 đến nay tỷ trọng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng giảm sút,
nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ có chiều hướng gia tăng mặc dù
có sự giảm nhẹ năm 1998. Nhóm hàng nông – lâm – thuỷ sản là nhóm hàng xuất
khẩu quan trọng của Việt Nam trong đó quan trọng nhất thuộc nhóm hàng nông –
thuỷ sả xuất khẩu. Trong những năm qua hàng nông sản xuất khẩu đang từng bước
chiếm được vị trí quan trọng trong xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay đang dao
động trong khoảng 23 – 25 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay trong xu thế quốc tế hoá toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đang
đến gần không một nước nào muốn phát triển mà không phải gắn nền kinh tế của
mình với nền kinh tế thế giới. Vì vậy tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định
nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động tham gia các tổ chức và khu vực
củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên thương trường quốc tế...”. Ngày 18
tháng 11 năm 1996, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết về kinh tế đối ngoại nhằm chỉ
đạo việc thực hiện nhiệm vụ quan trong này, Nghị quyết số 07/NQ – TW ngày 27
tháng 11 năm 2001 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt khác vấn đề này cũng được xác định cụ thể tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng với chủ trương “Phát huy cao nội lực, đồng thời chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh và có hiệu quả bền vững...”.
Đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, Việt Nam cần
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn,
kỹ thuật cũng như kiến thức quản lý để đẩy mạnh công cuộc CNH – HĐH đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh. Đó là một trong những giải pháp để nước ta thoát khỏi tụt hậu về
kinh tế và cũng là giải pháp giúp Việt Nam sánh vai ngang hàng với bạn bè Thế
giới, hoà mình với công cuộc hội nhập kinh tế Thế giới.
Bước vào đầu thế kỷ XXI nền kinh tế nước ta đang lĩnh hội nhiều cơ may
phát triển nhưng đồng thời cũng phải đôí mặt với nhiều thách thức lớn; Hiệp định
thương mại Việt – Mỹ đã chính thức có hiệu lực, lộ trình thực hiện AFTA và
chương trình thực hiện ưu đãi thuế quan CEPT ngày một đến gần. Để hội nhập và
phát triển không còn con đường nào khác hơn là nền kinh tế, mà cụ thể là tự thân
mỗi doanh nghiệp phải vận động, nâng cao năng lực quản lý và khả năng cạnh
tranh của mình.
Quá trình hội nhập kinh tế đã đem lại cho Việt Nam những kết quả khả quan.
Trong thời gian qua Việt Nam đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, mở rộng quan hệ song phương và đa phương, nối lại quan hệ với nhiều tổ
chức quốc tế như; Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng phát triển Châu á (ADB) những tổ chức này đã cam kết và thực hiện giải
ngân cho quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam với con số hàng tỷ đô la. Song
song với việc đó là Việt Nam ra nhập hiệp hội các nước ASEAN và khu vực mậu
dịch tự do AFTA, tham gia sáng lập diễn đàn á Châu (ASEM), ra nhập diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC), trở thành quan sát viên cảu tổ
chức thương mại Thế giới (WTO) và đang đàm phán với các nước và khu vực
thành viên để ra nhập tổ chức này. Ngoài ra nước ta cũng ký hiệp định khung về
hợp tác kinh tế với liên minh Châu Âu (EU), hiệp định thương mại Việt – Mỹ và
nhiều hiệp định song phương khác. Cũng như để tăng cường việc chỉ đạo công tác
hội nhập kinh tế quốc tế Chính phủ đã thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh
tế quốc tế.
Lợi ích của quá trình hội nhập kinh tế mang lại là không thể phủ nhận. Trước
hết là khi tham gia vào thị trường Thế giới là một thị trường khổng lồ với nhu cầu
về các mặt hàng phong phú và khối lượng lớn. Ví như khi tham gia AFTA thì thị
trường là 10 nước ASEAN với dân số trên 500 triệu người và GDP lên tới 700 tỷ
USD, hay khi ký kết được hiệp định Việt – Mỹ thì ngay trong năm đầu tiên hàng
Việt Nam vào Mỹ kim ngạch lên tới 2 tỷ USD trong đó các mặt hàng thuỷ sản và
dệt may có mức tăng trưởng vượt bậc. Hay khi ý tưởng ASEAN + Trung Quốc
thành hiện thực thì thị trường là khổng lồ và sắp tới là tham gia WTO sẽ là bước
tiến dài của Việt Nam trên đường hội nhập.
Hai là thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
(FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA), tiếp thu được nhiều thành tựu mới
về khoa học, công nghệ cũng như kỹ năng quản lý.
Ba là từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi
trường cạnh tranh, góp phần tạo lập tư duy kinh tế mới và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Và cuối cùng là đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu thì hội nhập sẽ mở
ra cơ hội xuất khẩu vào những thị trường bị bảo hộ cao của các nước phát triển khi
ta có hiệp định song phương đặc biệt là khi tham gia WTO.
Bên cạnh những cơ hội thì hội nhập kinh tế cũng mang lại cho Việt Nam
không ít những khó khăn. Thách thức của tự do hóa thương mại là không nhỏ, khi
hội nhập Việt Nam phải mở cửa thị trường của mình trong khi khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế chung ta còn kém sẽ có một số ngành sẽ không có khả năng tồn tại
được dưới sức ép của cạnh tranh. Ví như năm 2003 này đáng lẽ ta phải cắt giảm
một số dòng thuế xuống dưới 20% vào đầu tháng 1 khi thực hiện hiệu lực thuế
quan CEPT nhưng nay đã xin lùi lại cho tới ngày 1 tháng 7 tới thời gian không còn
nhiều sức ép cạnh tranh đang tới gần và theo yêu cầu của các thành viên ASEAN
thì quá trình tự do hoá AFTA sẽ kết thúc sớm vào năm 2005 chứ không phải 2006.
điều đó đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ
phía các nước ASEAn khi thuế suất chỉ còn 0 – 5%.
Mặt khác khi hội nhập AFTA thì theo các chuyên gia thì đa số mặt hàng ở
các nước ASEAN tương đối giống nhau vì vậy sẽ phải cạnh tranh với nhau. Đặc
biệt là các mặt hàng nông sản xuất khẩu càng phải cạnh tranh gay gắt đó chính là
nguy cơ lớn nhất hiện nay. Hay ý tưởng về một ASEAN + Trung Quốc thành hiện
thực thì Việt Nam lại càng phải đối mặt với khả năng cạnh tranh của hàng Trung
Quốc. Chính những điều đó đang đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực hơn trong
quá trình thực hiện cam kết của Chính phủ.
Ngoài ra với các mặt hàng nông sản xuất khẩu mặc dù khi tham gia hội nhập
ngay cả khi tham gia WTO thì vẫn bị các dào cản phi thuế quan và chính sách bảo
hộ của các nước khiến cho hàng nông sản của ta khó mà xâm nhập được.
Và cuối cùng là những khó khăn từ chính phía các doanh nghiệp như đa số
các doanh nghiệp ít hiểu biết về thị trường Thế giới và luật pháp quốc tế, năng lực
quản lý còn yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và
khả năng cạnh tranh còn yếu kém, tư tưởng ỷ nại, trông chờ vào sự bao cấp của
Nhà nước còn lớn.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh
tranh, tuy quá trình hội nhập kinh tế đưa lại cho Việt Nam những thuận lợi nhưng
bên cạnh đó không ít những khó khăn do vậy Việt Nam cần tỉnh táo, khôn khéo và
linh hoạt trong việc vận dụng xử lý khéo léo tính hai mặt của tiến trình hội nhập
tuỳ theo đối tượng, vấn đề trường hợp, vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ thụ động,
vừa phải chống tư tưởng giản đơn nôn nóng. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh
tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước vừa đáp ứng và tuân thủ đúng các quy định của các tổ chức
quốc tế mà nước ta tham gia.
3. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực trong hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu nói chung của Việt Nam từ năm 1991 –
2001 là 18,2%, nhanh hơn tốc độ GDP 2,6 lần xuất khẩu nói chung đạt nhịp độ
tăng trưởng cao, do cơ cấu xuất khẩu được đổi mới, tỷ trọng xuất khẩu các mặt
hàng qua chế biến cũng tăng lên đáng kể (từ 8% năm 1991 lên 31,1% năm 2001),
khối lượng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực cũng tăng khá. Đóng góp chung vào sự
tăng trưởng vượt bậc của xuất khẩu thời gian qua là do sự tăng trưởng của hàng
nông sản (bình quân đạt 21% trong suốt hơn 10 năm). Nừu như năm 2002 xuất
khẩu của cả nước đạt 16,530 tỷ USD trong đó các mặt hàng nông sản chiếm 2,7 tỷ
USD. Đặc biệt là do năm qua chính nhờ sự tăng giá của nông sản mà mục tieeu
xuất khẩu của cả nước mới được thực hiện. Chính vì vậy sự cần thiết xuất khẩu
các mặt hàng nông sản chủ lực là vì những lý do sau:
3.1.Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản là tiền đề cần thiết cho phát
triển nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp có vai trò cung cấp những sản phẩm thiết yếu như:lương thực,
thực phẩm cho con người tồn tại và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Theo
cách tiếp cận của khoa học kinh tế phát triển nông nghiệp và nông thôn là thị
trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và sản phẩm thành thị, kích thích công
nghiệp và đô thị phát triển.
Nếu như ngày trước sản xuất nông nghiệp từ chỗ thiếu ăn cho tới khi đôi mới
sản xuất có sản phẩm để xuất khẩu thì lại vấp phải vấn đề tiêu thụ. Người nông
dân làm ra hạt thóc đã khó nay lại phải xoay sở làm sao để bán được sản phẩm của
mình.Vì vậy tạo đầu ra cho nông sản là một bài toán lớn cho các quản lý. Trong
những năm qua chính phủ đã có những lỗ lực nhằm tìm kiếm đầu ra cho nông sản
trong đó hướng xuất khẩu được ưu tiên hàng đầu.
Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là nhằm phát huy lợi thế và tiềm năng trong
sản xuất nông nghiệp là vấn đề không chỉ là yêu cầu đoói với sự nghiệp phát triển
của nền kinh tế, mà còn là vấn đề mang tính chiến lược, nhằm giải quyết tông thể
về các quan hệ kinh tế xã hội, tăng trưởng và phát triển nông nghiệp, nông thôn
trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
3.2.Nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh
Việt Nam có diện tích 33 triệu ha trong đó có 8 triệu ha đất nông nghiệp vad
10 triệu ha đất lâm nghiệp. Do Việt Nam có khí hậu nhiệt đới và á nhiệt và nguồn
nước tạm đủ để dẫn thuỷ quanh năm nên 1 ha ruộng có khả năng cho trên 3 vụ lúa
năm với năng suất lý thuyết trên dưới 30 tấn / ha/ năm.
Nhìn chung so với một lượng kim nghạch hàng công nghiệp tiêu dùng như
dệt, may, giầy da...như nhau,tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng
nông sản rất thấp do đó thu nhập ngoại tệ ròng củ hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao
hơn nhiều. Ví dụ chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có ng