Trong xu thếmởcửa hiện nay, các ngành nghềkinh tếcủa chúng ta 
đang trên con đường “lột xác”, thay đổi cảvềnội dung lẫn hình thức. Sự
chuyển biến rõ nét nhất thểhiện trong ngành ngân hàng đến từng giây, từng 
phút. Hiện nay, các ngân hàng trong cảnước đang ra sức cơcấu lại hoạt động 
và phát triển SPDV của mình. Bởi họnhận thấy rằng việc phát triển các 
SPDV là con đường ngắn nhất đưa họtới cầu nối hội nhập. Vì vậy, đểphát 
triển được họphải làm gì? phát triển sản phẩm nào? đang còn là một vấn đề
vô cùng khó khăn trước mắt. 
Xuất phát từ đòi hỏi này nên vấn đề“Giải pháp phát triển sản phẩm 
dịch vụtại NHĐT & PT Hà Tây” đã được em chọn làm đềtài của chuyên đề.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 45 trang
45 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2832 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiêp: “Giải pháp phát 
triển sản phẩm dịch vụ tại NHĐT & PT 
Hà Tây” 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
1
LỜI MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài. 
 Trong xu thế mở cửa hiện nay, các ngành nghề kinh tế của chúng ta 
đang trên con đường “lột xác”, thay đổi cả về nội dung lẫn hình thức. Sự 
chuyển biến rõ nét nhất thể hiện trong ngành ngân hàng đến từng giây, từng 
phút. Hiện nay, các ngân hàng trong cả nước đang ra sức cơ cấu lại hoạt động 
và phát triển SPDV của mình. Bởi họ nhận thấy rằng việc phát triển các 
SPDV là con đường ngắn nhất đưa họ tới cầu nối hội nhập. Vì vậy, để phát 
triển được họ phải làm gì? phát triển sản phẩm nào? đang còn là một vấn đề 
vô cùng khó khăn trước mắt. 
 Xuất phát từ đòi hỏi này nên vấn đề “Giải pháp phát triển sản phẩm 
dịch vụ tại NHĐT & PT Hà Tây” đã được em chọn làm đề tài của chuyên đề. 
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Chuyên đề tập trung vào một số nội dung cơ bản sau: 
 Nghiên cứu về NHTM và đặc trưng hoạt động kinh doanh 
của 
 NHTM. 
 Nghiên cứu về đặc điểm của các SPDV ngân hàng. 
 Nghiên cứu những nhân tố thúc đẩy nhu cầu phát triển SPDV 
của 
các NHTM . 
 Nghiên cứu thực trạng cung cấp các SPDV của NHĐT & PT 
Hà 
 Tây và khả năng phát triển các SPDV này. 
3. Phương pháp nghiên cứu. 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
2
 Chuyên đề sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng và 
duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, 
phân tích kinh tế và các phương pháp của khoa học quản lý kinh tế-tài chính. 
4. Những đóng góp của chuyên đề. 
- Phân tích, hệ thống hoá những khái niệm, mô hình, chính sách về các SPDV 
của NHTM trong nền kinh tế thị trường. 
- Thu thập, phân tích và đánh giá thực trạng của việc phát triển các SPDV tại 
NHĐT & PT Hà Tây trong thời gian vừa qua. 
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển SPDV ngân hàng một 
cách có hiệu quả. 
5. Bố cục của chuyên đề. 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề 
được trình bày thành ba phàn chính: 
 Chương 1: Những vấn đề cơ bản về SPDV của NHTM. 
 Chương 2: Thực trạng cung cấp SPDV của NHĐT & PT Hà Tây. 
 Chương 3: Những giải pháp phát triển SPDV của NHĐT & PT Hà 
Tây. 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
3
 CHƯƠNG 1 
 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SẢN PHẨM DỊCH VỤ 
NGÂN HÀNG 
1.1. NHTM VÀ ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẨM DỊCH VỤ CỦA NHTM 
 1.1.1.Tổng quan về NHTM. 
 1.1.1.1.Khái niệm về NHTM. 
Khi thoát khỏi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền 
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhiều thành phần kinh tế với 
các hình thức sở hữu khác nhau đã ra đời. Các thành phần kinh tế không phân 
biệt quan hệ sở hữu đều được tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với 
nhau, bình đẳng trước pháp luật. Đây là tiền đề cần thiết cho sự ra đời của 
nhiều loại hình ngân hàng và các TCTD khác. Vì vậy, để tăng cường quản lý, 
hướng dẫn hoạt động của các NHTM, các TCTD, tạo thuận lợi cho sự phát 
triển kinh tế, đồng thời để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân 
,luật các TCTD và pháp lệnh vềàngan hàng đã ra đời. 
Theo pháp lệnh NH và các TCTD ban hành ngày 23/5/1990 có nêu: 
“ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các 
quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ 
ngân hàng với các nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, 
cung ứng cac dịch vụ thanh toán” 
 Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và sự phát triển 
của các TCTD cả về số lượng và quy mô hoạt động thì hoạt động của các 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
4
NHTM ngày càng phong phú đa dạng và đan xen lẫn nhau, ranh giới giữa các 
TCTD và NHTM trở lên mờ nhạt dần. 
 1.1.1.2. Đặc điểm kinh doanh và vai trò của NHTM trong nền kinh tế 
thị trường. 
 Vai trò của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia 
được thể hiện qua các đặc điểm kinh doanh của NHTM: 
 NHTM là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi. 
 Ngân hàng vừa là người “ cung cấp vốn”, vừa là người “ tiêu thụ 
vốn”.Nói cách khác, ngân hàng là “cầu nối” giữa người thừa vốn và người có 
nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Bằng việc huy động các tất cả các khoản 
vốn nhàn rỗi như: Vốn tạm thời đựoc giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất 
của các doanh nghiệp: từ tiết kiệm của hộ gia đình… Ngân hàng hình thành 
nên quỹ cho vay và thực hiện cho vay đối với các thành phần kinh tế nhằm 
mục đích thu lợi nhuận. Với đặc điểm này, ngân hàng chính là chủ thể chính 
đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của ngân hàng cung 
ứng cho các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất 
lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh . 
 Hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền 
tệ 
 và hệ thống thanh toán quôc gia. 
 Xuất phát từ nhu cầu của khách hàng như trích tài khoản tiền gửi của họ 
để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi từ tiền 
thu bán hàng hay các khoản thu khác, ngân hàng đóng vai trò là trung gian 
thanh toán và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 
Khi ngân hàng cung ứng tín dụng có nghĩa là ngân hàng đã tạo ra tiền 
và làm cho lượng tiền cung ứng tăng lên, ngựơc lại khi thu nợ thì lượng tiền 
cung ứng giảm xuống. Với việc tạo tiền, hệ thống NHTM đã làm tăng phương 
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả cho xã 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
5
hội. Cơ chế tạo tiền của NHTM cũng cho thấy mối quan hệ giữa tín dụng 
ngân hàng và lưu thông tiền tệ. 
 Ngân hàng có sản phẩm phong phú, đa dạng và có phạm vi hoạt 
động rộng lớn 
 Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia, hệ thống 
ngân hàng trên thế giới, nhất là các nước phát triển, họ không chỉ quan tâm tới 
các dịch vụ truyền thống mà còn phải chú trọng phát triển các SPDV ngân 
hàng. Hàng loạt các dịch vụ mới được xất hiện ngày càng tinh vi và hoàn hảo. 
Các dịch vụ càng đa dạng càng thu hút được nhiều khách hàng và lợi nhuận 
của ngân hàng càng tăng. 
Bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, 
mạng lưói chi nhánh ngân hàng cũng đang được mở rộng không chỉ ở thành 
thị mà còn cả ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo… nhằm đáp ứng tốt 
nhất nhu cầu của khách hàng. 
1.1.2. Khái quát về sản phẩm dịch vụ của NHTM. 
 1.1.2.1.Khái niệm sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 
SPDV ngân hàng là tập hợp những đặc điểm, tính năng, công dụng do 
ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu, mong muốn nhất định nào 
đó của khách hàng trên thị trường tài chính. 
 Như vậy, các SPDV khác nhau sẽ là tập hợp những đặc điểm, tính 
năng khác nhau. Chúng thoả mãn những nhu cầu, mong muốn khác nhau của 
các nhóm khách hàng. Tuy nhiên, SPDV ngân hàng thường được cấu thành 
bởi 3 cấp độ. 
 Một là, phần sản phẩm cốt lõi 
Là phần đáp ứng được nhu cầu chính của khách hàng, là giá trị cốt yếu 
mà ngân hàng bán cho khách hàng, là giá trị chủ yếu mà khách hàng mong 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
6
đợi khi sử dụng SPDV của ngân hàng. Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà thiết kế 
SPDV ngân hàng là phải xác định được nhu cầu cần thiết của khách hàng đối 
với từng SPDV để từ đó thiết kế phần cốt lõi của sản phẩm sao cho phù hợp 
với nhu cầu chính yếu nhất của khách hàng. 
 Hai là,phần sản phẩm hữu hình 
Là phần cụ thể của SPDV ngân hàng, là hình thức biểu hiện bên ngoài 
của SPDV ngân hàng như tên gọi, hình thức, đặc điểm, biểu tượng, điều kiện 
sử dụng. Đây căn cứ để khách hàng nhận biết, phân biệt, so sánh và lựa chọn 
SPDV giữa các ngân hàng. 
Ba là, phần sản phẩm bổ sung 
Là phần tăng thêm vào vào sản phẩm hiện hữu những dịch vụ hay lợi 
ích khác, bổ sung cho những lợi ích chính yếu của khách hàng. Chúng làm 
cho SPDV ngân hàng hoàn thiện hơn và thoả mãn được nhiều và cao hơn nhu 
cầu, mong muốn của khách hàng, tạo sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. 
Do vậy, khi triển khai một SPDV, trước hết, các nhà Marketing ngân 
hàng thường phải xác định được nhu cầu, cốt lõi của khách hàng mà SPDV 
ngân hàng thoả mãn; tạo đựoc hình ảnh cụ thể của SPDV để kích thích nhu 
cầu mong muốn, vừa làm cơ sở dể khách hàng có thể phân biệt, lựa chọn giữa 
các ngân hàng. Sau đó, ngân hàng tìm cách gia tăng phần phụ gia, nhằm tạo ra 
một tập hợp những tiện ích, lợi ích để có thể thoả mãn được nhiều nhu cầu, 
mong muốn cho khách hàng tốt hơn các đối thủ cạnh tranh. 
 1.1.2.2. Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ ngân hàng 
Sản phẩm ngân hàng được thể hiện dưới dạng dịch vụ nên nó có những 
đặc điểm sau đây: 
* Tính vô hình 
SPDV ngân hàng thường được thực hiện theo một quy trình chứ không 
phải là các vật thể cụ thể có thể quan sát, nắm giữ được. Điều này đã làm cho 
khách hàng của ngân hàng gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định lựa 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
7
chọn, sử dụng sản phẩm. Họ chỉ có thể kiểm tra, xác định chất lượng sản 
phẩm trong và sau khi sử dụng. Bên cạnh đó, một số SPDV ngân hàng đòi hỏi 
phải có trình độ chuyên môn cao và độ tin tưởng tuyệt đối như gửi tiền, 
chuyển tiền, vay tiền. Các yêu cầu này làm cho việc đánh giá chất lượng 
SPDV ngân hàng trở nên khó khăn, thậm chí ngay cả khi khách hàng đang sử 
dụng chúng. 
* Tính không thể tách biệt 
Do quá trình cung cấp và quá trình tiêu dùng SPDV ngân hàng xảy ra 
đồng thời, đặc biệt có sự tham gia trực tiếp của khách hàng vào quá trình cung 
ứng SPDV. Mặt khác, quá trình cung ứng SPDV của ngân hàng thường được 
tiến hành theo những quy trình nhất định không thể chia cắt ra thành các loại 
thành phẩm khác nhau như quy trình thẩm định, quy trình cho vay, quy trình 
chuyển tiền… Điều đó làm cho sản phẩm của ngân hàng không có sản phẩm 
dở dang, dự trữ lưu kho, mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu 
dùng khi và chỉ khi khách hàng có nhu cầu; quá trình cung ứng diễn ra đồng 
thời với quá trình sử dụng SPDV của ngân hàng. 
* Tính không ổn định và khó xác định 
 SPDV ngân hàng được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như trình 
độ đội ngũ nhân viên, kỹ thuật công nghệ và khách hàng.Đồng thời SPDV 
ngân hàng lại đựoc thực hiện ở không gian và thời gian khác nhau. Tất cả 
những điều này đã tạo nên tính không đồng nhất, không ổn định và khó xác 
định chất lượng SPDV ngân hàng. 
 1.1.2.3. Các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng 
 SPDV ngân hàng rất đa dạng và nhiều chủng loại nên có nhiều quan 
điểm khác nhau về phân chia SPDV, song nhìn chung có thể chia thành 2 
nhóm. 
 a.Sản phẩm cơ bản 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
8
 Là những sản phẩm cụ thể, có hình thức biểu hiện bên ngoài như :tên 
gọi, hình thức cụ thể, đặc điểm biểu tượng, điều kiện sử dụng…, những sản 
phẩm này sẽ mang lại những già trị chủ yếu mà khách hàng mong đợi. 
 Sản phẩm tiền gửi ( nhận tiền gửi ) 
 - Nhận tiền gửi của dân cư ( cá nhân và hộ gia đình ) 
 Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân 
hàng không có sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Loại tiền gửi này có 
đặc điểm là khồng ổn định nên ngân hàng thường phải thực hiện các khoản dự 
trữ lớn khi sử dụng vào kinh doanh, gồm 2 loại chủ yếu 
 + Tiền gửi thanh toán cá nhân: Là loại tiền gửi không kỳ hạn mà 
khách hàng gửi vào nhằm mục đích thanh toán, chi trả 
 + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi không kỳ hạn mà 
khách hàng gửi vào với mục đích đảm bảo an toàn tài sản 
 Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng có 
sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Loại tiền gửi này có đặc điểm là tính 
ổn định tương đối cao. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất 
trong tổng tiền gửi của dân cư và cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tiền 
gửi có kỳ hạn của ngân hàng. 
 - Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: gồm 2 loại. 
 Tiền gửi không kỳ hạn: 
 Loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tiền gửi của các tổ 
chức kinh tế, bao gồm: 
 +Tiền gửi thanh toán: Mục đích của loại tiền gửi này là các sử dụng 
các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt 
 + Tiền gửi không kỳ hạn giao dịch: Là loại tiền gửi không kỳ hạn 
mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản. 
 Tiền gửi có kỳ hạn: 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
9
 Loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tiền gửi của các tổ chức 
kinh tế, thời hạn gửi thường là ngắn hạn. 
 - Tiền gửi của các ngân hàng khác: 
 Nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này 
có thể gửi tiền tại ngân hàng khác.Tuy nhiên quy mô loại tiền gửi này thường 
không lớn. 
 Sản phẩm tín dụng và đầu tư tài chính 
 - Sản phẩm tín dụng: Đặc trưng chủ yếu của ngân hàng là “ đi vay 
để cho vay”, vì thế hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính 
của ngân hàng. Ngân hàng thường cung cấp cho khách hàng hai nhóm sản 
phẩm tín dụng là tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung-dài hạn . 
 + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, 
thường cho vay để bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp 
và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân. Có các hình thức cấp tín dụng 
ngắn hạn như: 
- Chiết khấu thương phiếu 
- Thấu chi ( tín dụng không có đảm bảo ) 
- Tín dụng bằng chữ ký ( tín dụng bảo lãnh ) 
- Tín dụng theo mùa 
 - Tín dụng trung-dài hạn 
- Tín dụng thuê mua 
- Cho vay đồng tài trợ 
 -Nghiệp vụ đầu tư: Bên cạnh khoản mục cho vay, ngân hàng cũng tìm 
kiếm lợi nhuận, tăng khả năng thanh khoản, đa dạng hoá danh mục đầu tư và 
phân tán rủi ro thông qua nghiệp vụ đầu tư vào các giấy tờ có giá và tham gia 
vào thị trường chứng khoán. 
 b.Sản phẩm bổ sung ( dịch vụ ngân hàng ): 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
10
 Khác với sản phẩm cơ bản, sản phẩm bổ sung được thể hiện dưới hình 
thức là loại hình dịch vụ ngân hàng, đây cũng là các hình thức kinh doanh của 
ngân hàng mà không phải đầu tư cho vay vốn. Nó nhằm bổ sung cho các sản 
phẩm truyền thống của ngân hàng ngày càng hoàn thiện, tăng thu lợi nhuận 
cho ngân hàng. 
 Dịch vụ thanh toán: 
 + Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước 
 + Dịch vụ thu hộ, chi hộ… 
 Để nhằm thực hiện tốt dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng 
thườngsử dụng các phương tiện thanh toán như: séc; thư tín dụng, uỷ nhiệm 
chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán… 
 Dịch vụ ngân quỹ: 
 + Dịch vụ đếm kiểm, thu nộp và cung ứng tiền mặt cho các khách hàng 
có tài khoản. 
 + Dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá. 
 + Dịch vụ cho thuê két sắt 
 + Các dịch vụ ngân quỹ khác 
 Dịch vụ uỷ thác 
 Dịch vụ tư vấn 
 Các dịch vụ ngân hàng khác như: dịch vụ bảo hiểm… , đến nay dịch vụ 
ngân hàng đã được mở rộng một cách đáng kể, phát triển ngày càng có ưu thế 
trong danh mục sản phẩm dịch vụ ngân hàng, sự gia tăng không ngừng trong 
cạnh tranh quốc tế đã đem lại các dịch vụ mới như: các nghiệp vụ phòng 
chống rủi ro hối đoái thông qua các hợp đồng Forward, Option, Swap, Future, 
nghiệp vụ phòng chống rủi ro lãi suât… 
 Như vậy, SPDV ngân hàng rất phong phú và đa dạng.Với mỗi ngân 
hàng lại có vốn và cơ sở hạ tầng khác nhau nên mỗi ngân hàng cần xây dựng 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
11
cho mình một danh mục sản phẩm phù hợp để hoàn thiện, phát triển và cung 
ứng tốt nhất cho khách hàng của mình. 
1.2.NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DỊCH 
VỤ CỦA NGÂN HÀNG HIỆN NAY 
 1.2.1. Sự tiến bộ của công nghệ ngân hàng 
 Công nghệ là một trong những nhân tố môi trường ảnh hưởng lớn tới sự 
phát triển của ngân hàng. Những thay đổi và tiến bộ của công nghệ ứng dụng 
vào ngân hàng đã tạo ra một cuộc cách mạng công nghệ trong ngành ngân 
hàng. Nó đòi hỏi các ngân hàng đổi mới và hoàn thiện danh mục SPDV và 
cung ứng ra thị trường một loạt các SPDV trên cơ sở công nghệ hiện đại như 
dịch vụ thẻ, dịch vụ ngân hàng tại nhà, ngân hàng tự động, máy rút tiền tự 
động (ATM) cho phép khách hàng truy cập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 
giờ, chuyển tiền điện tử, máy thanh toán POS… 
 1.2.2. Sự thay đổi nhu cầu của khách hàng. 
 Xuất phát từ quan điểm của Marketing ngân hàng, khác hàng được coi 
là trung tâm. Đặc biệt là trong hoạt động ngân hàng, khách hàng vừa tham gia 
trực tiếp vào quá trình cung ứng SPDV ngân hàng, vừa trực tiếp sử dụng 
chúng. Do vậy nhu cầu, mong muốn, cách thức sử dụng SPDV của khách 
hàng sẽ là yếu tố quyết định cả về số lượng, kết cấu, chất lượng SPDV, kết 
quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng và sự thay đổi nhu cầu của khách 
hàng sẽ là yếu tố quyết định đến sự thay đổi chính sách sản phẩm của ngân 
hàng. 
 Khách hàng của ngân hàng rất phong phú và đa dạng, từng khách hàng 
lại có nhu cầu, mong muốn và đòi hỏi về SPDV ngân hàng. Tuy nhiên, dù là 
khách hàng cá nhân hay tổ chức nhìn chung họ đều tìm đến các dịch vụ ngân 
hàng để thoả mãn các nhu cầu căn bản sau: 
 +> Tìm kiếm thu nhập. 
 +> Quản lý rủi do. 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
12
 +> Di chuyển tiền tệ. 
 +> Sử dụng các nguồn tài chính thiếu hụt. 
 +> Tư vấn. 
 +> Tìm kiếm thông tin. 
 1.2.3. Sự gia tăng cạnh tranh. 
 Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng trở lên quyết liệt khi số lượng 
ngân hàng tham gia trên thị trường tăng và các ngân hàng ngày càng mở rộng 
danh mục SPDV, áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự 
phát triển SPDV ngân hàng cả hiện tại và tương lai. Vì vậy, những thông tin 
về chiến lược SPDV của đối thủ cạnh tranh sẽ là căn cứ quan trọng trong việc 
khai thác và phát triển danh mục SPDV của một NHTM và chúng cũng ảnh 
hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. 
 1.2.4. Chính sách của chính phủ và quy định của pháp luật 
 Ngành tài chính_ngân hàng từ lâu đã được coi là huyết mạch, là hệ thần 
kinh trung ương của nền kinh tế nên các SPDV ngân hàng có những tác động 
lớn tới hoạt động kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Do vậy, chính phủ của 
các quốc gia đều quản lý chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng thông 
qua luật pháp. Vì thế, những thay đổi trong chính sách pháp luật của nhà nước 
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và tới 
danh mục SPDV ngân hàng nói riêng. Nó vừa mang lại cơ hội để hình thành 
những nhóm SPDV ngân hàng mới, vừa tạo nên những thách thức mới cho 
danh mục SPDV ngân hàng trong tương lai. 
1.3.TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DỊCH VỤ 
NGÂN HÀNG. 
 1.3.1. Giúp NHTM phân tán và giảm thiểu rủi ro. 
 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các NHTM là thường xuên phải 
đối đầu với mọi loại rủi ro như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng, rủi 
ro thanh khoản… Tín dụng là nghiệp vụ truyền thống và mang lại nhiều lợi 
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng 
Nguyễn Thị Lan Lớp 50142 
13
nhuận nhất nhưng rủi ro tín dụng lại dễ xảy ra nhất và gây thiệt hai cho ngân 
hàng nhiều nhất do ngân hàng luôn ở thế bị động sau khi cấp tín dụng cho 
khách hàng. Quản lý hoạt động tín dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khách 
hàng, pháp luật, mức độ biến động của nền kinh tế… Thực tế đã có rất nhiều 
NHTM trên thế giới bị phá sản vì đầu tư vốn mà không thu được nợ. Với tỷ 
lệ nợ khó đòi vượt quá mức cho phép (5%/ tổng dư nợ) cũng làm cho NHTM 
không thu được lợi nhuận và mất dần vốn tự có. 
 Vì vậy, bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, các NHTM hiện đại đang 
nỗ lực tạo ra các sản phẩm dịch vụ mới làm đa dạng hoá các danh mục sản 
phẩm, từ đó góp phần phân tán và giảm thiểu rủi ro. 
 1.3.2. Làm tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị 
trưòng. 
 Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện công 
nghệ hiện đại, công nghệ thông tin đang đổi mới không ngừng như hiện nay, 
nhu cầu của kh