Luận văn Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

Trước xu thếhội nhập kinh tếthếgiới, hoạt động ngân hàng không những chịu các áp lực vềkinh tếmà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân hang, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện nay hệthống nhân hang Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơtừcác tổchức tội phạm quốc tế sửdụng Việt Nam nhưnơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp. Chính phủ đã ban hành Nghị định số74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về phòng, chống rửa tiền và Nghị định này tập trung chủyếu trong lĩnh vực ngân hang. Điều này thểhiện quyết tâm chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệthống thanh tra, giám sát ngân hang còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức độsửdụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn. Tuy nhiên, với những hạn chếcủa khung pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền cùng những thách thức cho ngành ngân hang Việt Nam trước thềm hội nhập đòi hỏi Nhà nước và ngành ngân hang phải nhanh chóng có giải pháp để đương đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện chống rửa tiền có hiệu quảcao nhất. Đây chính là lý do đểhình thành Luận văn này với nội dung nghiên cứu tập trung vào“Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệthống ngân hang Việt Nam” xoay quanh chủyếu ba vấn đềchính đó là: hoàn thiện khung pháp lý phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tếthích hợp và chuẩn bịcơsởvật chất đầy đủcho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệthống ngân hang Việt Nam.

pdf76 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3116 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do hình thành đề tài Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những chịu các áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân hang, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện nay hệ thống nhân hang Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ chức tội phạm quốc tế sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về phòng, chống rửa tiền và Nghị định này tập trung chủ yếu trong lĩnh vực ngân hang. Điều này thể hiện quyết tâm chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệ thống thanh tra, giám sát ngân hang còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn. Tuy nhiên, với những hạn chế của khung pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền cùng những thách thức cho ngành ngân hang Việt Nam trước thềm hội nhập đòi hỏi Nhà nước và ngành ngân hang phải nhanh chóng có giải pháp để đương đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện chống rửa tiền có hiệu quả cao nhất. Đây chính là lý do để hình thành Luận văn này với nội dung nghiên cứu tập trung vào “Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam” xoay quanh chủ yếu ba vấn đề chính đó là: hoàn thiện khung pháp lý phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở thực trạng hoạt động rửa tiền trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng cùng với những nguy cơ rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn tập trung đưa ra các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với mục tiêu chính là đưa ra các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam, đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là hoạt động 2 rửa tiền, hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam và phạm vi nghiên cứu được tập trung vào hệ thống ngân hang Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã kết hợp phương pháp phân tích lý thuyết các văn bản, tài liệu và sử dụng phương pháp thống kê số liệu có lien quan đến hoạt động rửa tiền dể tiến hành phân tích những nguy cơ dẫn đến hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, Luận văn tập trung đưa ra các giải pháp để phòng chóng rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu Các giải pháp được đưa ra trong Luận văn tập trung vào ba mảng chính là: hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp để hạn chế nạn rửa tiền,và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho cuộc chiến chống rưa3 tiền. Các giải pháp này được phân loại phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cấp, ngành, đó là nhóm giải pháp về phía Nhà nước, về phía ngân hang Nhà nước và về phía các ngân hang thương mại. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước mang tính chất dài hạn nhằm tạo lập một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và một môi trường kinh tế thích hợp. Nhóm giải pháp về phía Ngân hang Nhà nước và các ngân hang thương mặi được sử dụng trong ngắn hạn như những công cụ tác nghiệp và có thể được vận dụng ngay. Tuy nhiên việc xem xét và lựa chọn giải pháp nào còn tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và đặc điểm riêng có của từng ngân hang. 6. Kết cấu của luận văn Nội dung của luận văn gồm ba phần: Phần 1: Phần mở đầu giới thiệu đề tài nghiên cứu và trình bày sơ lược về nội dung nghiên cứu. Phần 2: Nội dung nghiên cứu của đề tài,bao gồm ba chương: - Chương 1: Khái quát về hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền - Chương 2: Hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền tại Việt Nam - Chương 3: Giải pháp phòng,chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam Phần 3:Phần kết luận chung qua quá trình nghiên cứu. 3 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN 1.1. Khái quát về hoạt động rửa tiền Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới mẻ, nó cũng xưa như chính tội ác. Từ ngàn xưa, nhũng kẻ phạm tội đều tìm mọi cách che giấu nguồn gốc của các đồng tiền tội ác nhằm xoá sạch dấu vết các hành động tội phạm của họ. Ngày nay, do sự bành trướng của nạn tham nhũng tại nhiều quốc gia, nạn buôn bán mà tuý và buôn lậu vũ khí trên toàn cầu với doanh số mỗi năm ước lượng đến hàng trăm, hàng ngàn tỉ đô la Mỹ, thêm vào đó là các tổ chức khủng bố quốc tế với khả năng tài chính và nhu cầu cung cấp tiền cho mạng lưới khủng bố trên toàn thế giới rất lớn đã khiến cho việc rửa tiền trở thành một dịch vụ béo bở cho một thị trường ngày càng rộng lớn. Hoạt động rửa tiền ngày càng trở nên tinh vi hơn, khéo léo và với kỹ thuật cao cấp hơn. Không những nó giúp cho những “ông trùm” thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật, ngang nhiên trở thành những ông chủ giàu có, lương thiện mà còn tạo điều kiện cho việc phát triển các mạng lưới khủng bố tại nhiều quốc gia, mang lại những hậu quả khó lường đối với vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế. Do đó, rửa tiền đang là một mối đe dọa nguy hiểm đặt ra cho toàn thế giới, đòi hỏi sự hợp tác cũng mang tính chất toàn cầu của các quốc gia trên thế giới nhằm ngăn chặn hiểm họa này. Hiện nay và trong tương lai gần, nền kinh tế Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn vào hệ thống tài chính thế giới. Điều này đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng pháp luật, kiểm soát tài chính và nhất là các công cụ để chống rửa tiền có hiệu quả. Sự hội nhập kinh tế ngày càng sâu sẽ làm cho hệ thống tài chính của Việt Nam đối mặt nhiều hơn nữa các hành vi rửa tiền ở cấp độ tinh vi hơn. Đây là một trở ngại và thách thức đáng kể trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Việc nhận thức được những tác hại nghiêm trọng từ hoạt động rửa tiền và xây dựng khung pháp lý trong phòng, chống rửa tiền là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 4 1.1.1. Khái niệm rửa tiền Trên thế giới có rất nhiều khái niệm rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Theo Liên Hiệp Quốc, dựa vào công ước Vienna (1988) và công ước Palermo (2000), khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là “Việc sử dụng (nghĩa là với bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận) bất cứ tài sản nào mà nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi pháp luật”. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền là quá trình chuyển đổi qua nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp pháp hoặc tội phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp”. Theo quan điểm của các nhà tội phạm học: “Rửa tiền là hoạt động mà bọn tội phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những đồng tiền tội lỗi. Hoạt động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản tiền thu được từ hoạt động tội phạm”. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 do Chính phủ ban hành thì khái niệm rửa tiền được định nghĩa như sau: “Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây: - Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có; - Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; - Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thực sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có”. 5 1.1.2. Nguồn gốc của tiền “bẩn” Mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện lợi nhuận có được ban đầu thông thường là tiền, cũng có thể gọi đây là tiền “bẩn”. Sau các giai đoạn chuyển đổi để hợp pháp hoá, tiền “bẩn” sẽ có các hình thức biểu hiện khác như: thẻ tín dụng, bất động sản, các khoản đầu tư hợp pháp, ... Nguồn gốc của tiền “bẩn” thường từ các hoạt động sau: - Buôn lậu ma túy, vũ khí, mại dâm và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi như rượu, thuốc lá, … - Tiền tham nhũng, nhận hối lộ; - Tiền có do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước để biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, qui hoạch, ... nhằm trục lợi; - Tiền có được do mua bán nội gián trên thị trường chứng khoán, mua bán lòng vòng; - Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc; - Tiền có được do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập đoàn hoặc công ty mẹ - con hoặc tiền có được do trốn thuế. Nhìn chung các hình thức biểu hiện lợi nhuận của hoạt động rửa tiền bao gồm những lợi ích kinh tế của hoạt động rửa tiền mang lại được quy là “sản phẩm của tội phạm” (Theo Công ước Strasbong 1990 của Hội đồng Châu Âu). 1.1.3. Đối tượng tham gia vào hoạt động rửa tiền Đối tượng tham gia vào hoạt động rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp nhân tham gia vào quá trình rửa tiền với mong muốn hợp pháp hóa tiền và tài sản có được từ hoạt động tội phạm và sử dụng tài sản đó. Chủ sở hữu những khoản tiền cần tẩy rửa bao gồm những cá nhân và tổ chức đã thực hiện các hành vi tội phạm về ma túy, tài chính, tham nhũng, lừa đảo, mại dâm, buôn bán vũ khí,... 6 Có thể xếp những người rửa tiền làm bốn nhóm: Nhóm thứ nhất, những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp pháp…); Nhóm thứ hai, những người tham nhũng; Nhóm thứ ba, những người muốn tránh thuế; Nhóm thứ tư là các tổ chức khủng bố. Tất nhiên, các nhóm trên không hoàn toàn biệt lập, tham nhũng, tội phạm và kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau và tiếp sức cho nhau. Ví dụ, các quan chức thì cần có người để rửa tiền tham nhũng, tiền nhận hối lộ, người rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp hoặc công ty ma. Ngược lại, tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ cho các hoạt động kinh doanh phi pháp, trốn thuế. Ở một số nước có hệ thống chống rửa tiền nghiêm khắc và hoàn chỉnh như Mỹ và cộng đồng Châu Âu thì đối tượng hoạt động rửa tiền khá rộng. Ngoài những cá nhân, pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, nhân viên ngân hàng vô ý hay cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền qua ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy, luật Ngân hàng các nước này quy định: mọi nhân viên ngân hàng khi tiếp nhận các khoản tiền gửi lớn đều phải có nghĩa vụ yêu cầu khách hàng khai báo nguồn gốc tiền, chủ sở hữu thực, ... phục vụ thông tin phòng, chống rửa tiền. Nhân viên nào không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, nếu phát hiện ra các khoản tiền bất hợp pháp, cơ quan pháp luật hoàn toàn có thể truy tố họ về một trong các tội rửa tiền vì mất cảnh giác, không thực hiện nghĩa vụ quy định cho dù họ không biết đây là tiền có nguồn gốc tội phạm và như vậy, họ cũng bị quy kết tham gia vào quá trình rửa tiền. 1.1.4. Độ lớn của rửa tiền trong nền kinh tế Việc đo lường mức độ rửa tiền của một quốc gia như thế nào nhằm đánh giá tính nghiêm trọng khi có nhu cầu phân tích lại là một vấn đề không đơn giản. Có nhiều cách đo lường trực tiếp hoặc gián tiếp để ước lượng số lượng tiền được rửa ở một nền kinh tế nào đó. Ta có thể xem xét hai cách tiếp cận như sau: 7 Thứ nhất là cách tiếp cận vĩ mô. Đây là cách đo lường phổ biến vào những năm 1980, họ ước lượng hoạt động của kinh tế ngầm chiếm bao nhiêu phần trăm của GDP và thông qua đó phỏng đoán mức rửa tiền. Công cụ thường dùng là quan sát sự dịch chuyển bất thường nhu cầu xã hội theo thời gian, hoặc là sự tăng vọt hay giảm thuế đột ngột. Cách tiếp cận thứ hai là tiếp cận vi mô. Cách này thường ước lượng gộp thông qua các hoạt động tội phạm được phát hiện, các kênh thông tin đường phố (street knowledge). Thông thường thì các thống kê mức độ rửa tiền công bố với một biên độ dao động khá rộng tính bằng phần trăm GDP. Chẳng hạn như những kết quả công bố gần đây của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF1, số lượng tiền được rửa ở Úc khoảng 4% - 12% GDP, ở Đức là 2% - 11%, ở Ý là 10% - 33%, Nhật là 4% - 15%, Anh là 1% - 15% và ở Mỹ là 4% - 33%. Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên một nghiên cứu công bố gần đầy về hoạt động không chính thức của kinh tế Việt Nam làm chúng ta lo ngại. Nghiên cứu của Stoyan2 và cộng sự cho rằng hoạt động phi chính thức của Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm. Trong đó, các hoạt động phụ của hộ gia đình ở nông thôn chiếm 24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ không khai báo ở thành thị là khoảng 10,5% và hoạt động không khai báo khác là 10%. Như vậy chúng ta thấy dù ít hay nhiều thì hoạt động rửa tiền ở Việt Nam có thể tồn tại và nếu tính quy đổi theo tỷ lệ phần trăm nào đó đối với hoạt động kinh tế ngầm theo nghiên cứu của Stoyan nêu trên thì Việt Nam cũng có cơ sở quan tâm và nghiên cứu đến chủ đề này khá phức tạp và khó đo lường này. 1.2. Quy trình rửa tiền Một quy trình rửa tiền tiêu biểu thông qua hệ thống ngân hàng thường bao gồm 3 giai đoạn sau: 1 Peter J. Quirk, “Money Laundering: Muddying the Macroeconomy”, IMF Working Paper 96/66. 2 Stoyan Tenev và cộng sự, Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở VN, 2003, NXB Thông tấn. 8 - Đầu tư phân tán (Placement). - Phân tán lòng vòng (Layering). - Hợp nhất (Intergration). 1.2.1. Đầu tư phân tán (Placement) Đây là thuật ngữ nói lên việc phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào trong hệ thống tài chính mà không gây ra sự chú ý của các định chế tài chính và của các cơ quan chức năng. Các tội phạm rửa tiền có thể thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản tiền bẩn thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức quy định - theo đề xuất của tổ chức chống rửa tiền quốc tế mức quy định là 15.000 USD hoặc 10.000 EUR - và thường được thực hiện ở những ngân hàng có các quy chế kiểm soát nội bộ yếu kém, hoặc là những ngân hàng có uy tín thấp. Thậm chí các tội phạm rửa tiền còn thực hiện một cách hoàn hảo các kế hoạch của mình bằng cách chuyển tiền vào những tài khoản của những đối tác mà những hóa đơn thu tiền của các đối tác này sẽ không bao giờ có các hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng. 1.2.2. Phân tán lòng vòng (Layering) Đây là thuật ngữ nói lên một quy trình tạo ra một chuỗi các giao dịch tài chính phức tạp nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp để cuối cùng chúng quay trở lại và trở nên “sạch” hơn. Các kỹ thuật phân tán thông thường là cho vay lại (loan-backs) và tính giá cao (double invoicing): Việc cho vay lại (loan backs) được thực hiện bằng cách các tội phạm rửa tiền sẽ chuyển tiền ra nước ngoài, thường trực tiếp vào những ngân hàng dễ dãi (bank secrecy haven). Cần lưu ý rằng trong giai đoạn này, người chuyển tiền và người thụ hưởng chỉ là một người. Sau đó, họ sẽ tìm cách vay lại từ chính các ngân hàng dễ dãi này, và đương nhiên đồng tiền đi ra từ ngân hàng đã trở nên “sạch”. Kỹ thuật này được thực hiện khá dễ dàng ở những quốc gia chưa thực sự quan tâm đến hoạt động rửa tiền và lúc này sẽ rất khó kiểm soát được các tài khoản này. Đối với việc tính giá cao (double invoicing), tội phạm rửa tiền sẽ mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ nước ngoài với giá trị trên hóa đơn cao hơn nhiều lần so với giá trị 9 thực. Khi chuyển tiền thanh toán, các đồng tiền “bẩn” được đưa vào hệ thống ngân hàng một cách hợp pháp và trở nên “sạch” ở nước ngoài. Ngoài ra, các giao dịch tài chính tinh vi như tham gia vào thị trường tài chính thứ cấp gắn liền với việc sử dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến như Internet banking cũng gây khó khăn cho hoạt động điều tra. 1.2.3. Hợp nhất (Integration) Đây là thuật ngữ nói lên giai đoạn cuối cùng của việc rửa tiền, là việc tái phân phối trở lại vào nền kinh tế các nguồn tiền không thể lần ra dấu vết được nữa. Giai đoạn này được tiến hành thông qua hàng loạt các hành vi tiêu dùng xa hoa lãng phí, đầu tư bất động sản, các chi tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính. Việc đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị đồng tiền phạm tội, trộn lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây cũng là công đoạn khó khăn để có thể xác định hành vi cấu thành tội phạm. Ngoài ra, hành vi rửa tiền cũng có thể được thực hiện không thông qua ngân hàng như: - Bất động sản; - Chứng khoán, các công cụ phái sinh; - Thuê mua tài chính; - Bảo hiểm; Nếu xét về mặt không gian, hành vi rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp: - Trường hợp 1: các nguồn tiền “bẩn” được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp được thu, được rửa cũng như được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó. - Trường hợp 2: lượng tiền “bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên thị trường trong nước. - Trường hợp 3: tiền “bẩn” được tạo ra ở nước ngoài, được tẩy rửa ở đó hay một nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển. 10 - Trường hợp 4: số tiền được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một quốc gia đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tư cho quốc gia đó. - Trường hợp 5: lượng tiền sau khi rửa được chuyển vào một quốc gia đang phát triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi. 1.3. Các phương thức rửa tiền Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền rất phong phú đa dạng, gắn liền với khe hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự, pháp luật về tài chính, ngân hàng ... Từ thực tiễn phòng chống rửa tiền của nhiều nước có thể mô tả các phương thức, thủ đoạn của tội phạm rửa tiền như sau: - Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt, đây là phương thức rửa tiền truyền thống và chủ yếu của bọn tội phạm, như đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác để tiêu thụ. - Rửa tiền thông qua việc mua vàng, kim cương, … là những tài sản gọn nhẹ, có giá trị cao, có thể mua đi bán lại ở mọi nơi, mọi thời điểm trên thế giới. Đây là phương thức rửa tiền được bọn tội phạm sử dụng nhiều nhất do cách thức đơn giản, dễ thực hiện, nhưng lại dễ bị cơ quan điều tra phát hiện. - Rửa tiền thông qua đầu tư vào gửi tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu. Bọn tội phạm sẽ gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc mua tín phiếu, trái phiếu ... làm cho đồng tiền nằm im trong một thời gian phù hợp với quy định với mỗi nước. Sau đó, người gửi tiền có thể rút ra toàn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, biến số tiền đó thành tiền hợp pháp. - Rửa tiền thông qua hoạt động đầu tư, góp vốn thành lập doanh nghiệp. Hiện tượng này thường xảy ra ở những quốc gia đang phát triển, có nhu cầu vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường tài chính ở các quốc gia này kém phát triển, khả năng quản lý kém sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm rửa tiền phát triển. - Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”. Tại một số nước, hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, đắt đỏ mà lại quan liêu. Do đó, trong cộng đồng những người nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng không 11 chính thức gọi là ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này hoạt động và luân chuyển tài chính như các ngân hàng chính thức nhưng với chi phí dịch vụ rẻ hơn, bí mật hơn các ngân hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện