Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh
tếthịtrường định hướng xã hội chủnghĩa trong xu hướng hội nhập kinh tếkhu
vực và toàn cầu. Một trong những vấn đềcó vịthếquan trọng hàng đầu trong sự
nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đềvềnguồn lực, vấn đềvốn - vấn
đềthuộc cơsở“ hạtầng mềm” cho đầu tưphát triển. Đây là vấn đềmang tính
cấp thiết, đầy biến động đòi hỏi phải xây dựng, phát triển và thường xuyên được
xửlý, điều chỉnh nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế, giải quyết
được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Vậy thì giải pháp nào cho
huy động vốn; chúng ta phải có những phương án, quyết sách cụthểmang tính
chiến lược trong dài hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu vềvốn cũng nhưnâng cao khả
năng hấp thụvốn của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại với chức năng của
mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn còn tạm thời
nhàn rỗi trong dân cưvà các tổchức kinh tế, nhất là các hình thức huy động
trung và dài hạn đểcho vay và đầu tưvào các dựán xây dựng cơsởhạtầng,
mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ. Hệthống ngân hàng đang phấn đấu
nhằm thực hiện có hiệu quảchiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ
các nguồn vốn từbên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh
cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệthống ngân hàng, đồng thời
tập trung giảm tỷlệnợquá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệthống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, ngân
hàng công thương chi nhánh Ba Đình đã và đang hoàn thiện, phát huy hơn nữa
vai trò và thếmạnh của mình trong sựnghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Với bềdày lịch sửcủa mình, ngân hàng công thương Ba Đình trong thời
kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng từcơchếtập trung quan liêu bao
cấp sang cơchếthịtrường, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào công
cuộc cải cách nền kinh tế đất nước.
74 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp tăng cường huy động
vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình”
Chuyên đề thực tập
1
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập kinh tế khu
vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng đầu trong sự
nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đề về nguồn lực, vấn đề vốn - vấn
đề thuộc cơ sở “ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Đây là vấn đề mang tính
cấp thiết, đầy biến động đòi hỏi phải xây dựng, phát triển và thường xuyên được
xử lý, điều chỉnh nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế, giải quyết
được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Vậy thì giải pháp nào cho
huy động vốn; chúng ta phải có những phương án, quyết sách cụ thể mang tính
chiến lược trong dài hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn cũng như nâng cao khả
năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại với chức năng của
mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn còn tạm thời
nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, nhất là các hình thức huy động
trung và dài hạn để cho vay và đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng,
mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ. Hệ thống ngân hàng đang phấn đấu
nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ
các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh
cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng, đồng thời
tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, ngân
hàng công thương chi nhánh Ba Đình đã và đang hoàn thiện, phát huy hơn nữa
vai trò và thế mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Với bề dày lịch sử của mình, ngân hàng công thương Ba Đình trong thời
kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào công
cuộc cải cách nền kinh tế đất nước.
Chuyên đề thực tập
2
Tính bức xúc trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại
nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng như nhu cầu về vốn cho sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang theo đuổi
chính là động lực cho em chọn nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng cường
huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình” cho chuyên đề thực tập
của mình trong thời gian thực tập tại ngân hàng công thương Ba Đình.
Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba
Đình.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba
Đình.
Do khả năng lý luận và nhận thức về một vấn đề còn hạn chế, đây lại là một
đề tài khó, chính vì vậy bài viết này của em không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Mong thầy cô phê bình, góp ý để bài viết sau của em được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Chuyên đề thực tập
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NHTM.
1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.1. Khái niệm NHTM
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”.
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có
hai mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan
nhà nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ
phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật
pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của
bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và
Chuyên đề thực tập
4
hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị
trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng về
sau, theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các nghiệp vụ của
các ngân hàng càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu
hướng phát triển ngày càng toàn diện với quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch
vụ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự
phát triển của các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi quốc gia mà mang
tính chất toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu
á (ADB)… việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện đại
càng làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoàn thiện
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định
được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi chính
sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho vay
đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của mình,
NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý
của Ngân hàng Trung ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống NHTM đã
thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn vê
NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của NHTM đối với quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa giá
trị tài sản của ngân hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung gian tài
chính trong nền kinh tế. Ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách bán những tài sản
nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng
Chuyên đề thực tập
5
tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế các ngân
hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác
cho công chúng. Nghiệp vụ này đã tạo ra lợi nhuận thặng dư cho ngân hàng
đồng thời tạo tiện ích cho khách hàng để đôi bên cùng có lợi.
Nghiệp vụ tài sản nợ (Nguồn vốn):
Đây là nghiệp vụ tạo điều kiện và tiền đề cho hoạt động của NHTM. Các
NHTM thực hiện huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
dưới mọi hình thức để thực hiện nhiệm vụ đầu tư, cho vay đối với các thành
phần kinh tế, giúp họ đổi mới trang thiết bị sản xuất, nâng cấp nhà xưởng phục
vụ kinh doanh…
Nghiệp vụ tài sản có (Sử dụng vốn):
- Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt:
Ngân hàng dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân
hàng, đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên, liên tục của khách
hàng vào bất cứ lúc nào. Dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô
hoạt động, cơ cấu và tính chất nguồn vốn của NHTM. Các khoản dự trữ của
NHTM không sinh lời.
- Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng tham gia góp vốn liên doanh, liên kết,
thành lập công ty con...
- Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho
các NHTM. Các NHTM sử dụng phần lớn số tiền huy động được để cho vay đối
với nền kinh tế. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập
chính để bù đắp các loại chi phí trong hoạt động của Ngân hàng và thu lợi của
NHTM.
Các dịch vụ Ngân hàng:
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tiến hành
Chuyên đề thực tập
6
cung ứng các dịch vụ phục vụ khách hàng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn
tài chính,... trên cơ sở đó Ngân hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay do nhu cầu phát
triển của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ Ngân hàng ngày càng mở rộng
về số lượng và chất lượng. Các Ngân hàng đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất,
áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng, thực hiện tốt khâu
thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán séc,
thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy tính, thực hiện
thanh toán bằng thẻ tín dụng…
Thực hiện tốt khâu cung ứng dịch vụ góp phần làm tăng thu nhập cho
Ngân hàng vì xu hướng phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở
rộng các hoạt động dịch vụ, đồng thời vẫn duy trì các nghiệp vụ Ngân hàng
truyền thống, thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động, các NHTM có thể vừa
tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi Ngân hàng
trong lĩnh vực cung ứng các sản phẩm tài chính.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu
nhập từ chênh lệch tỷ giá và các dịch vụ thanh toán quốc tế, đó chính là doanh
lợi hối đoái.
2. Nguồn vốn của NHTM.
Huy động vốn là một trong những hoạt động kinh doanh chính của ngân
hàng thương mại. Vậy trước khi tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động huy động
vốn của ngân hàng thương mại ta phải hiểu như thế nào về vốn.
Vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản tức là vốn phải
được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định. Mặt khác vốn
không chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá quý…) và phản ánh giá
trị những tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa…) mà còn được
biểu hiện bằng giá trị của những tài sản vô hình (uy tín, trình độ, phát minh,
sáng chế, thông tin, công nghệ…) chính vì sự biểu hiện dưới các hình thức
Chuyên đề thực tập
7
phong phú và đa dạng đó mà vốn cần phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả
mới đem lại lợi nhuận cao.
Như vậy, có thể nói: Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư
nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù
hoạt động trong lĩnh vực nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định
hiệu quả của nó. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có
hiệu quả mang lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần phải được quan tâm
đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện
công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều
kiện hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh
tế có thể ví như máu trong cơ thể, thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển. Song
vốn được tạo lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách
tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và
huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp
cho ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan
trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói
riêng cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Tuy
nhiên, nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như:
vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác.
2.1. Vốn chủ sở hữu.
Chuyên đề thực tập
8
Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế đó là: cung cấp
nguồn lực ban đầu cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới
thành lập, là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng,
phòng ngừa rủi ro kinh doanh cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
Chuyên đề thực tập
9
2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện
thành lập ngân hàng của pháp luật. Nguồn vồn này là lượng vốn tối thiểu mà
ngân hàng cần phải có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh
doanh. Các loại hình ngân hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành vốn ban
đầu khác nhau: Đối với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình thành ban đầu
là do ngân sách nhà nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì là do các bên liên
doanh đóng góp, nếu là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông góp vốn thông qua
việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu của ngân hàng; nếu là ngân hàng tư nhân thì đó
là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngân hàng. Đó bao gồm:
Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân
hàng có thể chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư.
Lượng vốn tích lũy tư thu nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng
trong thời gian tới cũng như cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu
dùng.
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu
cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của hình
thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được
lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
2.1.3. Các quỹ.
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những
mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ
Chuyên đề thực tập
10
của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này
là từ thu nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
- Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được trích lập
hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc
lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ
thu nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ
nhất định nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động
Ngân hàng, vì trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất
khả kháng có thể xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.
2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng
(vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu
tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
2.2. Nguồn huy động.
Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng
nhưng lại là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của
ngân hàng,thường thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh
lệch nhau một lượng nhất định. Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn
rỗi này vào mục đích cho vay kiếm lời. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ
yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Vốn huy
động bao gồm:
Chuyên đề thực tập
11
- Tiền gửi giao dịch:
Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào nhằm mục đích giao dịch thanh
toán, chi trả các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát
sinh trong kinh doanh một cách an toàn, thuận tiện. Đặc tính cơ bản của tiền gửi
giao dịch là có thể phát séc, lãi suất thấp và có tính không ổn định.
- Tiền gửi phi giao dịch:
Bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, chúng có tính ổn định
cao, người gửi được hưởng lãi suất cao nhưng không được phát hành séc.
Bên cạnh đó, NHTM còn có thể huy động vốn thông qua phát hành các
giấy tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Trong đó chứng
chỉ tiền gửi và kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái phiếu là loại phiếu nợ
trung, dài hạn. Các loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với
mục đích, số lượng cụ thể và chỉ phát hành khi được sự cho phép của NHTW.
Đặc điểm của các loại giấy nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất
tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm, có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại
tiền gửi khác.
2.3. Nguồn đi vay.
Là nguồn vốn mà ngân hàng phải vay mượn thêm trong trường hợp khả
năng huy động của ngân hàng bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho
khách hàng tăng cao. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan hệ vay
mượn của ngân hàng thương mại với ngân hàng trung ương, với các tổ chức tín
dụng khác hoặc giữa các ngân hàng thương mại với nhau.
Ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương khi khả năng chi
trả của ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các
NHTM vay vốn của NHTW dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp
thiếu hụt trong thanh toán, bổ sung vốn dự trữ... Để được vay chiết khấu các
NHTM phải nộp cho NHTW các giấy tờ có giá có thời hạn còn lại là ngắn hạn
Chuyên đề thực tập
12
xin chiết khấu như thương phiếu, chứng khoán của Chính phủ... chúng thường là
các loại giấy tờ mà chủ thể phát hành ra chúng có uy tín cao. Lãi suất chiết khấu
do NHTW quy định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ của Nhà nước
trong từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước điều hành việc vay mượn này một cách
chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm
soát nhất định.
Để đảm bảo cho việc thanh khoản của mình, các ngân hàng thiếu hụt dự
trữ có nhu cầu vay mượn tức thời các ngân hàng thường vay mượn của nhau và
vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng
đang có số dư tiền gửi vượt yêu cầu chưa sử dụng sẽ sẵn sàng cho các ngân hàng
khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Quy trình vay mượn giữa các ngân hàng
rất đơn giản, ngân hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay
hoặc thông qua ngân hàng đại lí (và có thẻ là ngân hàng nhà nước). Khoản vay
có thể có hoặc không cần đảm bảo, dựa trên cơ sở uy tín của ngân hàng đi vay
hoặc mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau.
Ngoài các hình thức trên ngân hàng có thể vay mượn bằng cách phát hành
các công cụ nợ như: Kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn. Các
khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi,
đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn, là giải pháp tình thế cho
ngân hàng trong hoàn cảnh khó khăn.
3. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với ngân hàng thương mại.
Các nguồn vốn huy động được sẽ quyết định quy mô cũng như định
hướng hoạt động của ngân hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào
trong quá trình kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là
yếu tố đầu vào thường xuyên, chủ yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh
Chuyên đề thực tập
13
của NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi
phí thấp nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao.
Ngược lại, với quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn
trong hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên
quan chặt chẽ với lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và
lãi suất các công cụ nợ do