Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội

Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại c ó một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi. Nhưng để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ bên ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp ứng đ ầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình. Có th ể nói ho ạt động huy động các nguồn khác nhau trong xã hộ i là lẽ sống quan trọng nhất củ a các NHTM. Tại Vi ệt Nam vi ệc huy đ ộng vốn (khai th ác lượng tiền tạm thời nh àn rỗi trong c ông chúng, hộ gia đ ình, củ a các TCKT- XH hay cá c TCTD kh ác) củ a NHTM còn nhiều b ất h ợp lý. Đi ều n ày dẫn tới chi ph í vốn cao, quy mô không ổn đ ịnh, việc tài tr ợ cho cá c danh m ục tà i sản kh ông còn phù hợp với quy m ô, kết cấu từ đó l àm hạn ch ế kh ả năng sinh lời, bu ộc ngân hàng ph ải đối m ặt với các lo ại rủ i ro.v.v. Do đó, việc tăng cường huy đ ộng vốn từ bên ngo à i với chi ph í h ợp lý và sự ổn đ ịnh cao là yêu cầu ngày cà ng trở nên cấp thi ết v à quan trọ ng

pdf94 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2796 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Trang 2 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi. Nhưng để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ bên ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các nguồn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Tại Việt Nam việc huy động vốn (khai thác lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong công chúng, hộ gia đình, của các TCKT-XH hay các TCTD khác) của NHTM còn nhiều bất hợp lý. Điều này dẫn tới chi phí vốn cao, quy mô không ổn định, việc tài trợ cho các danh mục tài sản không còn phù hợp với quy mô, kết cấu từ đó làm hạn chế khả năng sinh lời, buộc ngân hàng phải đối mặt với các loại rủi ro.v.v. Do đó, việc tăng cường huy động vốn từ bên ngoài với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu cầu ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng. Để tăng cường huy động vốn ta cần nghiên cứu các hình thức huy động, các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn như quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài trợ cho các danh mục tài sản và không ngừng tăng trưởng ổn định; nguồn vốn có chi phí hợp lý; huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn; quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến hoạt động huy động vốn. Cũng như phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn. NHTM CP Quân đội là một ngân hàng non trẻ. Mười năm hoạt động không phải là một khoảng thời gian dài, nhưng với tất cả những gì NHTM CP Quân đội đã Trang 3 trải qua và đạt được, ngân hàng có quyền tự hào và tin tưởng vào sự phát triển của mình trong tương lai. Trong định hướng phát triển, tăng cường huy động vốn vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đây là một hoạt động vô cùng cần thiết góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế, và để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động kinh doanh cho Ngân hàng. Điều này có thể thấy rõ trong những năm gần đây, nguồn vốn với chi phí rẻ từ Bộ Quốc Phòng và các đối tượng trong ngành như các doanh nghiệp quốc phòng v.v.. gửi tại NHTM CP Quân đội ngày càng eo hẹp, không đều qua các năm. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt không chỉ riêng hệ thống NHTM mà còn từ sự tham gia ngày càng nhiều của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Từ đó đòi hỏi NHTM CP Quân đội phải có những giải pháp huy động vốn đúng đắn thích hợp mới đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, đây cũng là đề tài chuyên đề tốt nghiệp đã được lựa chọn: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội”. 2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của chuyên đề Xuất phát từ lý luận về huy động vốn của NHTM, chuyên đề sẽ phân tích, đánh giá thực trạng nguồn vốn, hoạt động huy động vốn từ bên ngoài của NHTM CP Quân đội và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn để góp phần nâng cao kết quả kinh doanh của NHTM CP Quân đội. 3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của chuyên đề Đề tài nghiên cứu tập trung các vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn từ bên ngoài của NHTM. Phân tích, đi sâu nghiên cứu hoạt động huy động vốn của NHTM CP Quân đội trên các khía cạnh: các loại hình, quy mô, cơ cấu, chi phí vốn và sự phù hợp với sử dụng vốn trên cơ sở các số liệu của ngân hàng từ năm 2000-2004. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp khoa học: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp chỉ số, phân tích, so sánh và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá. Sử dụng số liêu thống kê để luận chứng. Trang 4 5. Bố cục của chuyên đề Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn từ bên ngoài trong NHTM Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn từ bên ngoài của NHTM CP Quân đội thời gian qua. Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn từ bên ngoài tại NHTMCP Quân đội. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG NHTM 1.1. Tổng quan về NHTM 1.1.1. Khái niệm NHTM Hiện nay, tuy khái niệm về NHTM ở mỗi nước có đặc điểm khác nhau nhưng đều thống nhất coi NHTM là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ và Trang 5 cung ứng những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong những tổ chức tài chính trung gian, các tổ chức tài chính trung gian này gọi chung là các định chế tài chính có chức năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng theo Điều 20 có ghi “ NHTM là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” Trong đó “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM Ngay từ xa xưa, với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng với nhau. Để việc trao đổi này được tiến hành dễ dàng và thuận lợi, người ta đã dùng tiền làm trung gian trao đổi hàng hoá. Hệ quả là đã làm tăng tốc độ trao đổi hàng hoá, kích thích sản xuất, đưa xã hội loài người ngày càng phát triển. Nếu không có tiền đóng vai trò trung gian thì quá trình trao đổi sẽ vô cùng phức tạp. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được phát huy. Các NHTM với chức năng kinh doanh tiền tệ đã biết tận dụng ưu thế, sức mạnh của đồng tiền để sinh lời. Họ thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách trao đổi ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Do kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các NHTM thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn, vì vậy họ thực hiện cất trữ hộ tiền cho mọi người để làm tăng thu nhập từ việc thu phí, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ. Ngoài ra, họ còn cho vay lấy lãi. Ban đầu, các ngân hàng đã dùng vốn của chủ để tài trợ cho các hoạt động nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, các ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc, đã tạo số dư thường Trang 6 xuyên ở két. Do tính chất vô danh của đồng tiền, ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho ngân hàng, do vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Như vậy, từ việc giữ hộ tiền để thu phí, ngân hàng chuyển sang huy động vốn và trả lãi cho việc huy động số tiền nhàn rỗi, tiềm tàng trong xã hội. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng các hoạt động của ngân hàng. Bước chuyển mình lớn nhất của hệ thống ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ 20 khi mà các ngân hàng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào hoạt động của mình. Hàng loạt sản phẩm mới ra đời đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng như bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, uỷ thác tư vấn, môi giới chứng khoán.v.v. Ngày nay, ngân hàng đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của mỗi nền kinh tế. Nó được coi là mạch máu của một quốc gia. 1.1.3. Nguồn vốn của NHTM NHTM cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào để tồn tại và phát triển phải có vốn. Vốn tác động đến kết cấu tài sản và khả năng sinh lời, hạn chế các loại rủi ro trong hoạt động NHTM. Vốn của NHTM gồm 2 loại cơ bản nếu phân chia theo hình thức sở hữu là vốn chủ sở hữu và vốn nợ (vốn huy động từ bên ngoài). 1.1.3.1. Vốn của chủ sở hữu a, Khái niệm Vốn chủ sở hữu là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được luật pháp cho phép hoạt động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm nguồn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn vay nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và các quỹ. b, Các thành phần vốn của chủ sở hữu và đặc điểm của chúng - Vốn ban đầu Vốn ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở Trang 7 hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do ngân sách Nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp. Trường hợp của ngân hàng cổ phần có thể được hình thành từ cổ phần thường và cổ phần ưu đãi. Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. Các qui định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng. NHNN, luật NHNN có qui định cụ thể cho từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể. Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể bán cổ phiếu trên thị trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi nhuận của ngân hàng. - Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động Bao gồm cổ phần phát hành thêm ( hoặc ngân sách cấp thêm ) trong quá trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quĩ ... Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm: Ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin cấp thêm vốn từ ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro trong trường hợp cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu... Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên ngân hàng mình: Hình thức huy động này huy động vốn từ chính những cán bộ công nhân viên trong ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của ngân hàng. Đây là hình thức mang tính lâu dài và ổn định cần được chú trọng. Huy động từ lợi nhuận bổ sung VCC, các quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp, quỹ khen thưởng là các loại quỹ khác: Nếu như lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính Trang 8 là nguồn bổ sung quan trọng nhất. Nguồn bổ sung này có thể lấy trực tiếp từ các quỹ như: Quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp.v.v. Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi nào thì được phép trích lập từ các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích lập ra sao cho hợp lý. Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu: Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu dài hạn cũng thuộc VCC mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một khoản nợ. Tuy nhiên, phần này thường bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ. c, Vai trò Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng trong kinh doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của NHNN Việt Nam tỷ lệ Vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, song Vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng. Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền: Kinh doanh ngân hàng thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng. Vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động cho ngân hàng: Như đã phân tích ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu. Số vốn này được sử dụng để mua sắm trang thiết bị, nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phòng đại diện... Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng: Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với Vốn chủ sở hữu như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với Vốn chủ sở hữu... Vì vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu. 1.1.3.2. Vốn nợ a, Khái niệm Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn nợ của NHTM chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với vốn của chủ và đây là loại vốn cơ bản để tài trợ cho Trang 9 các danh mục tài sản của NHTM. Vốn nợ được huy động từ các nguồn tiền gửi, vay và một số loại khác. b, Các thành phần vốn nợ và đặc điểm của chúng - Tiền gửi Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi nhất là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là yếu tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn nguồn tiền gửi. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, các loại hình huy động... đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. - Tiền vay Tỷ trọng nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền gửi. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên chỉ vay lúc cần thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Các khoản vay thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Hơn nữa vay NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. - Nguồn khác Phần lớn các nguồn này ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên, chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn. c, Vai trò Trang 10 Có thể nói nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để ngân hàng được đi vào hoạt động và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì vốn nợ lại là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Trên cơ sở vốn nợ tạo lập, ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào chứng khoán, mua sắm tài sản cố định, tiền gửi tại ngân hàng khác và phải được thực hiện dự trữ theo quy định để đảm bảo khả năng thanh toán. Qui mô, cơ cấu của các nhóm tài sản này được xác định một phần căn cứ vào qui mô, cơ cấu vốn nợ. Thêm vào đó, tính ổn định về chi phí và thời hạn của vốn nợ quy định số tiền phải dự trữ là cơ sở cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn nên cho vay với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với vốn. Như vậy, vốn nợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định danh mục tài sản đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM. Ngoài ra, qui mô và kết cấu của vốn nợ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự an nguy hoạt động của NHTM. Sự không phù hợp giữa việc huy động vốn từ bên ngoài và việc sử dụng vốn về thời hạn, độ nhạy cảm với lãi suất, qui mô các loại tiền có thể dẫn tới các rủi ro về thanh toán, lãi suất, tỷ giá mà ngân hàng phải gánh chịu. Tóm lại, qua những vấn đề được đề cập ở trên thì rõ ràng vốn có vai trò quan trọng quyết định sự sống còn của một ngân hàng đặc biệt là vốn nợ. Để có được vốn nợ thì hoạt động huy động vốn từ bên ngoài lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Sau đây là những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn từ bên ngoài trong NHTM. 1.2. Những vấn đề cơ bản về huy động vốn từ bên ngoài của NHTM 1.2.1. Các hình thức huy động vốn từ bên ngoài Tuỳ theo các tiêu chí, mục đích huy động khác nhau có các hình thức sau: Nếu phân theo loại vốn huy động gồm: huy động tiền gửi và tiền vay. Nếu huy động vốn phân theo loại tiền: huy động vốn nội tệ và ngoại tệ. Nếu phân theo phạm vi huy động: huy động vốn trong nước và nước ngoài. Trang 11 Nếu theo kỳ hạn huy động: huy động vốn ngắn, trung và dài hạn. Nếu phân theo đối tượng huy động vốn: huy động vốn từ các cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế. Ngoài ra, các NHTM còn huy động từ các nguồn bên ngoài khác. Cụ thể: 1.2.1.1. Huy động vốn tiền gửi, vay a, Huy động vốn tiền gửi “Ngân hàng được nhận tiền gửi của các TCKT, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền tửi có kỳ hạn và tiền gửi khác” - Điều 45 Luật các TCTD số 03/1997/QH10. Tiền gửi phân loại theo kỳ hạn bao gồm : - Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi giao dịch): Khi tiền mặt (hoặc Séc từ một ngân hàng khác) được gửi vào ngân hàng A, nếu muốn sẽ có thể rút tiền ra hoặc chi tiêu vào bất cứ lúc nào, ngân hàng A sẽ sắp xếp tiền gửi đó vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào buổi sáng, nếu cần có thể rút ra ngay vào buổi chiều. Nếu không có nhu cầu sử dụng, có thể mười bữa nửa tháng hoặc một năm sau mới rút ra. Tính bất định về thời gian gửi, cùng với đặc điểm có thể rút ra bất cứ lúc nào cần đã làm cho loại tiền gửi này còn có tên gọi tiếng Anh là Demand deposit. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi và bao gồm 2 loại sau: + Tiền gửi thanh toán: Đó là khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Đối với tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có.Với tài khoản Trang 12 này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. + Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý : Là các khoản tiền được ký gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần thanh toán khách hàng có thể đến ngân hàng để chi tiêu. Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử dụng tồn khoản chi khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả. - Tiền gửi có kỳ hạn: Khi gửi tiền vào NHTM theo tài khoản gửi có kỳ hạn, điều ngân hàng cần biết trước tiên là gửi với thời gian bao lâu. Thông thường định kỳ có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc hơn nữa. Tại Việt Nam, các khoản tiền gửi có kỳ hạn thường nằm trong khoảng 6 tháng đến 24 tháng. Nguyên nhân vì các doanh nghiệp nước ta hầu hết thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn không lớn và tốc độ quay vòng vốn khá nhanh. Do vậy, họ khó có thể gửi với kỳ hạn dài. Hơn nữa nếu gửi tiền có kỳ hạn càng dài mặc dù được hưởng lãi suất cao hơn nhưng khi có nhu cầu rút tiền đột xuất thì khoản lãi suất mà ngân hàng trả sẽ rất thấp, do phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng. Lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường là cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Lý do ở đây là, khi đã thống nhất với ngân hàng rằng sẽ gửi tiền trong khoảng thời gian nào đó, có đến hơn 80% những thân chủ đã giữ được cam kết nói trên. Do vậy, NHTM hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi để cho vay. Với khoản cho vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Vì th
Luận văn liên quan