Nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập, ngày càng có cơ hội phát triển trên mọi
lĩnh vực. Sự ra đời và lớn mạnh của các công ty quốc doanh và ngoài quốc doanh dẫn
đến nhu cầu về vốn đầu tư cũng tăng mạnh. Ngân hàng là một loại hình trung gian tài
chính quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là khi hoạt động của thị trường tài chính và
các trung gian tài chính phi ngân hàng khác chưa phát triển, các ngân hàng thương mại
trở thành kênh dẫn vốn có vai trò vô cùng quan trọng. Việc huy động vốn do đó cũng
trở thành nhu cầu cấp thiết của cả nền kinh tế nói chung và các ngân hàng thương mại
nói riêng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng các Ngân hàng trên thị trường
tăng lên đáng kể, trong đó có một số lượng lớn các Ngân hàng thương mại quốc doanh
và ngoài quốc doanh, các Ngân hàng 100% vốn nước ngoài hay Ngân hàng liên doanh.
Chính điều đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi mỗi Ngân hàng cũng
cần phải hoàn thiện những nghiệp vụ huy động vốn hiện tại và không ngừng mở rộng
danh mục hoạt động của mình.
Cũng như các Ngân hàng khác hệ thống và các chi nhánh trong cùng hệ thống Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Sở giao dịch đã nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động huy động vốn đối với kết quả kinh doanh của Sở, vì vậy Sở cũng tăng
cường đầu tư trang thiết bị, áp dụng các biệp pháp nhằm thúc đẩy khả năng thu hút
nguồn vốn trong nền kinh tế. Kết quả thực tế đã chứng minh bên cạnh những thành quả
nhất định, nghiệp vụ huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN vẫn còn rất nhiều điều cần
lưu tâm: Nghiệp vụ huy động chưa đa dạng và chưa có sức thu hút đối với khách hàng,
hoạt động Marketing còn nhiều thiếu sót Vì vậy, vấn đề cần thiết hiện nay là đưa ra
những biện pháp có tính thực tế nhằm thúc đẩy hiệu quả của nghiệp vụ này.
65 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1870 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tài Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp tăng cường huy động vốn tài
Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam
Lời mở đầu
Sự cần thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập, ngày càng có cơ hội phát triển trên mọi
lĩnh vực. Sự ra đời và lớn mạnh của các công ty quốc doanh và ngoài quốc doanh dẫn
đến nhu cầu về vốn đầu tư cũng tăng mạnh. Ngân hàng là một loại hình trung gian tài
chính quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là khi hoạt động của thị trường tài chính và
các trung gian tài chính phi ngân hàng khác chưa phát triển, các ngân hàng thương mại
trở thành kênh dẫn vốn có vai trò vô cùng quan trọng. Việc huy động vốn do đó cũng
trở thành nhu cầu cấp thiết của cả nền kinh tế nói chung và các ngân hàng thương mại
nói riêng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng các Ngân hàng trên thị trường
tăng lên đáng kể, trong đó có một số lượng lớn các Ngân hàng thương mại quốc doanh
và ngoài quốc doanh, các Ngân hàng 100% vốn nước ngoài hay Ngân hàng liên doanh.
Chính điều đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi mỗi Ngân hàng cũng
cần phải hoàn thiện những nghiệp vụ huy động vốn hiện tại và không ngừng mở rộng
danh mục hoạt động của mình.
Cũng như các Ngân hàng khác hệ thống và các chi nhánh trong cùng hệ thống Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Sở giao dịch đã nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động huy động vốn đối với kết quả kinh doanh của Sở, vì vậy Sở cũng tăng
cường đầu tư trang thiết bị, áp dụng các biệp pháp nhằm thúc đẩy khả năng thu hút
nguồn vốn trong nền kinh tế. Kết quả thực tế đã chứng minh bên cạnh những thành quả
nhất định, nghiệp vụ huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN vẫn còn rất nhiều điều cần
lưu tâm: Nghiệp vụ huy động chưa đa dạng và chưa có sức thu hút đối với khách hàng,
hoạt động Marketing còn nhiều thiếu sót… Vì vậy, vấn đề cần thiết hiện nay là đưa ra
những biện pháp có tính thực tế nhằm thúc đẩy hiệu quả của nghiệp vụ này.
Xuất phát từ thực trạng trên, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường huy động
vốn tài Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em.
Mục đích nghiên cứu.
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu các vấn đề sau :
Các nội dung cơ bản của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Thực trạng huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN
Các giải pháp có thể xem xét áp dụng để nâng cao số lượng và chất lượng vốn
huy động cho SGD-NHĐT&PTVN
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các nghiệp vụ huy động vốn tại SGD-NHĐT&PT trong vài năm trở lại đây.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong chuyên đề là thu thập dữ liệu, tổng hợp,
phân tích, so sánh. Từ kết quả thu được, đưa ra các nhận định chung về thực trạng hoạt
động và đề xuất các giải pháp phù hợp để khắc phục điểm yếu và phát huy điểm mạnh.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT
ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản của NHTM.
1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Được hình thành, tồn tại và phát triển qua hàng trăm năm, ngân hàng
thương mại có tác động rất lớn và quan trọng tới sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Đồng thời, khi nền kinh tế hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao – nền kinh tế thị trường
– thì ngân hàng thương mại cũng ngày càng hoàn thiện và trở thành định chế tài chính
không thể thiếu.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền của các thợ vàng. Sau này, do yêu cầu
cất trữ tiền và thanh toán hộ đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn vào các Ngân
hàng này. Nhận thấy sự chênh lệch về thời gian giữa những khoản tiền vô danh gửi vào
và khoản rút ra, các chủ ngân hàng đã bắt đầu sử dụng tạm thời một phần tiền gửi để
cho vay, đó là cơ sở của hoạt động tín dụng về sau này. Cùng với sự vận động và phát
triển của tư bản thương nghiệp, ngân hàng thương mại cũng ra đời. Ngân hàng thương
mại thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống như huy động tiền gửi, thanh toán
và cho vay chủ yếu dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Giai đoạn sau, tại mỗi nước, trong từng điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều
loại hình Ngân hàng khác nhau trong đó có Ngân hàng trung ương có chức năng phát
hành tiền, điều hành chính sách tiền tệ, các Ngân hàng khác và Ngân hàng thương mại
đều có đặc điểm chung là tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ. Cho tới nay, hệ
thống Ngân hàng thương mại đã và đang phát triển rất mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng và phong phú của nền kinh tế.
Nếu tiếp cận trên phương diện các loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp thì Ngân
hàng thương mại được hiểu là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế.
Nếu tiếp cận theo các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại thì theo quy định
tại Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hôi chủ nghĩa Việt Nam “ Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng
đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân
và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của ngân
hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn - tiền",
trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó
chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Hoạt động của ngân hàng thương mại
phục vụ cho nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các
tổ chức khác trong xã hội. Hệ thống ngân hàng phát triển bền vững ổn định là điều kiện
cần thiết cho một nền kinh tế vững mạnh.
Các Ngân hàng thương mại đều thực hiện 3 chức năng cơ bản sau.
Trung gian tài chính.
Ngân hàng là trung gian tài chính lớn nhất và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
với hoạt động chủ yếu là biến tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế, ở 1 thời điểm
bất kì luôn có sự nhàn rỗi tạm thời về vốn đối với cá nhân, danh nghiệp hay tổ chức này
nhưng cùng lúc đó một số cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp khác lại đang trong tình
trạng thiếu hụt về vốn, do đó tất yếu sẽ phát sinh một sự dịch chuyển về vốn giữa 2
nhóm này. Tuy nhiên do hạn chế về mặt thông tin cũng như những giới hạn về khoảng
cách không gian, thời gian nên việc chuyển giao vốn một cách trực tiếp sẽ gặp nhiều
khó khăn, tốn chi phí và kém an toàn. Ngân hàng thương mại đứng ra đóng vai trò trung
gian giúp cho cung cầu về vốn gặp nhau thông qua huy động vốn từ người này và cho
vay đối với người kia, giải quyết các mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp trên cơ sở gánh
chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ nhằm hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi
phí giao dịch.
Tạo phương tiện thanh toán.
Trước đây khi chưa có Ngân hàng trung ương chuyên về nghiệp vụ phát hành tiền thì
các Ngân hàng thương mại cũng phát hành tiền giấy của riêng mình dưới dạng giấy nợ
ngân hàng dựa trên số lượng tiền – vàng đang nắm giữ. Với những ưu thế nhất định,
giấy nợ ngân hàng dần thay thế tiền vàng trở thành phương tiện thanh toán và cất trữ -
trở thành tiền giấy.
Khi ngân hàng trung ương ra đời, các Ngân hàng thương mại không còn được phát hành
giấy bạc của riêng mình. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn có khả năng tạo phương tiện thanh
toán bằng việc cho vay đối với khách hàng, nhờ đó mà khách hàng có thể sử dụng số dư
tăng thêm trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để mua hàng hóa dịch vụ. Ngoài
ra, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại là một
trong bốn nhân tố trong quá trình cung ứng tiền tệ. Khi họ mở rộng các khoản tiền gửi
từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay, toàn bộ hệ thống đã tạo ra tạo
ra khối lượng tiền gửi tăng gấp bội theo công thức số nhân tiền tệ.
Trung gian thanh toán.
Trong các loại nghiệp vụ Ngân hàng, vai trò làm trung gian thanh toán cho nền kinh tế
là một nghiệp vụ rất quan trọng, nó có lịch sử gắn liền với lịch sử hình thành và phát
triển của hệ thống Ngân hàng cũng như có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất và
lưu thông hàng hoá phát triển. Các giao dịch thanh toán của khách hàng và nội bộ ngân
hàng (đổi tiền, đầu cơ, đầu tư, quyết toán thanh toán…) thực hiện dưới hình thức tiền
mặt, chuyển khoản (trong hệ thống) hoặc chuyển tiền (liên ngân hàng).
Ngân hàng thay mặt khách hàng thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ, sử dụng một
loạt các hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư
tín dụng, các loại thẻ thanh toán. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với
nhau qua trung tâm thanh toán trong nước và quốc tế theo các qui chuẩn thống nhất.
Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thương mại điện tử được ứng
dụng rộng rãi thì hoạt động thanh toán của ngân hàng ngày càng đạt hiệu quả cao hơn,
an toàn và tiện lợi, đóng góp đắc lực vào sự vận động phát triển của nền kinh tế toàn
cầu.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân ngân hàng
cũng như đối với toàn xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và tiến hành các
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại sử
dụng các biện pháp và công cụ cần thiết trong giới hạn của pháp luật để huy động các
nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, tăng nguồn tín dụng. Kết quả của hoạt động này là tạo
ra nguồn vốn đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
Huy động vốn từ việc nhận tiền gửi: Là nguồn vốn huy động thường xuyên chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại, thực chất là tài sản
bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, nhưng với
nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu.. Các loại hình huy động vốn
từ tiền gửi bao gồm:
Tiền gửi không kì hạn: Là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại không ổn
định, vì người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào nhằm phục vụ mục đích sử dụng dịch
vụ thanh toán của ngân hàng. Mang lại nguồn thu phí về dịch vụ cho các ngân hàng.
Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội : Là nguồn vốn có kì
hạn xác định, tương đối ổn định nhưng chi phí để có và duy trì, quản lý nguồn vốn này
lại khá cao, khách hàng gửi tiền vào chủ yếu nhằm mục đích an toàn và sinh lời.
Tiền gửi tiết kiệm từ dân cư : Là nguồn tiền có kì hạn tương đối ổn định, tuy
nhiên chi phí cũng không thấp. Mục đích chủ yếu của dân cư khi gửi tiền là nhu cầu bảo
toàn vốn và hưởng lãi. Thông thường đây là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn, các ngân
hàng cũng tìm cách để thu hút bằng cách đa dạng hóa các hình thức huy động và sử
dụng lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Huy động vốn thông qua phát hành giấy từ có giá ( Kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền
gửi …): Là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường khi
thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn.
Thường thì những ngân hàng lớn có uy tín hoặc chấp nhận trả lãi suất cao sẽ dễ vay
mượn hơn. Tuy nhiên các ngân hàng cũng cần nghiên cứu kĩ thị trường để đưa ra mức
lãi suất và kì hạn phù hợp để có thể huy động được vốn với hiệu quả cao nhất.
Huy động vốn thông qua nghiệp vụ đi vay: Ngân hàng thương mại đi vay vốn từ Ngân
hàng trung ương hay các tổ chức tín dụng khác vào những giai đoạn nhất định nhằm đáp
ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Chi phí cho nguồn vốn này
tương đối đắt nên thường chỉ được duy trì ở một tỉ trọng nhỏ và trong những trường hợp
cụ thể.
Huy động vốn bổ sung vào nguồn vốn chủ sở hữu: Nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một
tỉ trọng khá khiêm tốn trong tổng nguồn vốn nhưng lại có vai trò quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng tăng cường
nguồn vốn chủ sở hữu của mình thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay bổ
sung vốn từ lợi nhuận.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo ra các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng dựa
trên nguồn vốn đã huy động được, trong đó quan trọng nhất là nghiệp vụ cho vay và đầu
tư mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng.
Dự trữ: Là bộ phận cần thiết và tất yếu đối với mọi ngân hàng, nhằm đảm bảo khả năng
thanh toán. Dự trữ của Ngân hàng thương mại bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh
toán.
Dự trữ bắt buộc: Để đảm bảo an toàn chung cho toàn hệ thống, đồng thời sử dụng như
một công cụ để điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương được ấn định một tỉ
lệ dự trữ bắt buộc trên mỗi khoản tiền gửi trong từng thời kì nhất định. Các ngân hàng
thương mại phải duy trì tỉ lệ này, và thông thường được gửi tại Ngân hàng trung ương.
Dự trữ thanh toán: Các ngân hàng tự xác định một mức dự trữ phù hợp nhất định dựa
trên kinh nghiệm và điều kiện thực tế. Khoản dự trữ này được duy trì dưới dạng tiền
mặt nằm trong két của Ngân hàng và tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác. Mục
đích chủ yếu là đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Tín dụng: Là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn nhất tại các ngân hàng thương mại đồng thời
mang lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Nếu phân chia theo hình thức tài trợ, các
nghiệp vụ tín dụng chủ yếu của Ngân hàng gồm có:
Cho vay: Là loại hình tín dụng phổ biến nhất trong đó Ngân hàng cho người đi vay sử
dụng một số vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư hay tiêu dùng.
Theo cam kết thì đến hạn người đi vay sẽ phải hoàn trả cho ngân hàng phần vốn đã vay
cộng thêm tiền lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay cũng như quá trình sử dụng
vốn. Hoạt động này có mức độ rủi ro rất lớn, có thể không thu hồi được vốn vay hoặc
người vay trả không hết hay trả không đúng hạn. Do đó, trong hoạt động cho vay, các
Ngân hàng sử dụng các biện pháp đảm bảo như thế chấp, cầm cố …
Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng
với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đến hạn. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng cung cấp tín dụng cho một chủ thể
và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng.
Cho thuê (Financial leasing): Là loại hình tín dụng trung, dài hạn, trong đó ngân hàng
bỏ tiền của mình ra để mua tài sản cho khách hàng thuê theo những điều kiện nhất định.
Khi hết hợp đồng thuê, khách hàng được quyền mua lại hoặc kéo dài thời hạn thuê, hoặc
lựa chọn trả lại tài sản cho ngân hàng.
Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng, cho phép khách hàng sử dụng uy tín của mình để thực hiện các hợp đồng kinh tế
đã kí kết hay các hoạt động kinh doanh khác. Trên cơ sở đó, ngân hàng thu phí bảo lãnh
từ khách hàng.
Đầu tư: là khoản mục có vị trí rất quan trọng, mang lại cho ngân hàng khoản thu nhập
tương đối lớn. Ngân hàng có thể dùng nguồn vốn huy động được để đầu tư vào các lĩnh
vực nhưng chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán. Tất cả các hình thức đầu tư đều nhằm
mục đích mang lại thu nhập, nhưng mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro của
hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán. Do vậy, các ngân hàng cũng chủ yếu nắm giữ
các loại giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao và khả năng sinh lời như chứng khoán
chính phủ, chứng khoán ngân hàng và chứng khoán của các công ty lớn có uy tín.
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Ngân hàng thương mại cũng tham gia kinh doanh trên
thị trường hối đoái nhằm thu lợi cho chính mình hoặc cho khách hàng. Hoạt động kinh
doanh ngoại tệ thường gặp phải tổn thất nếu gặp rủi ro hối đoái nên đòi hỏi ngân hàng
phải có trình độ chuyên môn cao và nhanh nhạy với những biến động trên thị trường.
Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ : Theo yêu cầu của chính phủ hoặc do ngân
hàng tự nguyện tài trợ cho các dự án của chính phủ.
1.1.2.3. Các hoạt động khác.
- Bảo quản vật có giá
- Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
- Cung cấp các dịch vụ đại lý.
1.2. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu tuy chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại nhưng lại là cơ sở để ngân hàng đó bắt đầu các hoạt động kinh doanh, đóng vai trò
sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả
năng phát triển lâu dài.
1.2.1.1. Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu.
Tùy thuộc vào tính chất sở hữu, năng lực tài chính của mỗi ngân hàng, yêu cầu và sự
phát triển của thị trường mà nguồn hình thành vốn chủ của mỗi ngân hàng cũng khác
nhau.
Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng. Nếu ngân hàng
thuộc sở hữu của nhà nước thì vốn ban đầu do nhà nước cấp, nếu là ngân hàng cổ phần
thì vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu, nếu là ngân
hàng tư nhân thì vốn ban đầu do tư nhân bỏ ra. Vốn ban đầu sẽ được ghi vào điều lệ của
công ty và gọi là vốn điều lệ. Theo quy định của pháp luật thì vốn điều lệ không được
nhỏ hơn mức vốn pháp định.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, ngân hàng
sẽ gia tăng vốn chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy theo những điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Khi thu nhập ròng của ngân hàng dương, chủ ngân hàng
có thể gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển 1 phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư.
Tỉ lệ tích lũy do chủ ngân hàng tự quyết định.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, cấp thêm, góp thêm… để mở rộng
quy mô hoạt động, hiện đại hóa ngân hàng. Tuy là nguồn huy động không thường xuyên
nhưng lại giúp ngân hàng có lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích sử dụng riêng. Thông thường
các ngân hàng sẽ có Quỹ dự phòng tổn thất (được trích lập hàng năm theo tỉ lệ nhất
định, nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra), Quỹ bảo toàn vốn (bù đắp hao mòn của vốn
do lạm phát) Quỹ thặng dư (đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa giá thị
trường với mệnh giá cổ phiếu khi phát hành). Ngoài ra có thể có các quỹ khác như quỹ
phúc lợi, quỹ khen thưởng … Tất cả các quỹ được trích lập từ lợi nhuận hàng năm theo
những quy định cụ thể.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của
ngân hàng thương mại có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần sau thời hạn nhất định được
coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu do tính chất lâu dài và không phải hoàn trả khi
đến hạn.
1.2.1.2. Vai trò của vốn chủ sở hữu.
Như đã đề cập ở trên, vốn chủ sở hữu của một ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối
với sự hình thành và phát triển lâu dài của một ngân hàng.
Thứ nhất: Vốn chủ sở hữu là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép hoạt
động kinh doanh, hình thành nên nhà cửa, trang thiết bị cần thiết cho ngân hàng và cơ
sở huy động những khoản tiền gửi đầu tiên.
Thứ hai: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng là tấm đệm chống đỡ rủi ro phá sản, được sử
dụng để bù đắp cho những thua lỗ về tài chính trong quá trình hoạt động trong một
khoảng thời gian nhất định trước khi chủ ngân hàng tìm cách đưa ngân hàng trở lại hoạt
động bình thường. Do đó vốn chủ sở hữu là bộ phận quan trọng góp phần bảo vệ lợi ích
của người gửi tiền.
Thứ ba: Vốn chủ sở hữu tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo niềm tin cho công chúng và
đảm bảo đối với chủ nợ về năng