Luận văn Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau

Trong cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh Cà Mau, thủy sản đã được xác định là một ngành kinh tếmũi nhọn của tỉnh. Trong thời gian qua, hiện nay và cũng nhưtrong tương lai kinh tếthủy sản sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tếcủa tỉnh nhà. Tiềm năng vềphát triển kinh tếthủy sản của Cà Mau rất phong phú: có bờbiển dài 254 km, bao bọc ba mặt từ Đông sang Tây; có ngư trường rộng lớn khoảng 100.000 km2; có bãi biển rộng, bằng phẳng, nước không sâu lại có các cửa sông là nơi trú ẩn cho nhiều loài tôm, cá, Ngưtrường Cà Mau là 1 trong 4 ngưtrường trọng điểm của cảnước, có trữlượng lớn và đa dạng nguồn hải sản có giá trịkinh tếcao như: tôm, cua, mực, ghẹ, cá hồng, cá lạc, cá đường, cá ngừ, cá bớp, cá chai, cá mú, với 660 loài, 319 giống thuộc 138 họ, trong đó có 175 loài thuộc 116 giống và 77 họ đã được định danh. Trữlượng các loài hải sản có thểkhai thác ởngưtrường Cà Mau gồm: Vùng biển Đông có trữ lượng các tầng nổi 520 nghìn tấn, có khảnăng khai thác 210 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữlượng 800 nghìn tấn, có khảnăng khai thác 400 nghìn tấn/năm. Vùng biển Tây có trữlượng cá nổi 316 nghìn tấn, có khảnăng khai thác 126 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữlượng 470 nghìn tấn, có khảnăng khai thác 235 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó, việc nuôi trồng tại khu vực mặt nước ven biển cũng rất thuận lợi, gồm các loại nhuyễn thểvà các loại hai mảnh vỏnhư: nghêu, sò huyết, các loại tôm, cua, cá nước mặn có giá trịcao trong tiêu dùng và xuất khẩu. NTTS ven biển, đặc biệt là nuôi tôm, đang phát triển nhanh chóng và trởthành thếmạnh của tỉnh Cà Mau. Vùng biển Cà Mau còn có nhiều đảo, cụm đảo ven bờnhư: cụm đảo Hòn Khoai, đảo Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, một sốbãi cát ven biển Đông của huyện Ngọc Hiển như: bãi Khai Long, bãi Giá Lồng Đèn, và ven bờbiển là hệsinh thái rừng ngập mặn đa dạng. Đây là những điểm lý tưởng đểtàu thuyền trú ẩn khi có bão, gió lớn hoặc biển động. Những cụm đảo nầy cũng có thểphát triển thành những trung tâm hậu cần nghềcá của tỉnh và khu vực. Ngoài ra, Cà Mau còn có hệthống kinh rạch chằng chịt dài trên 7.000 km và diện tích mặt nước lớn, thuận lợi cho đánh bắt và NTTS. Cà Mau còn có nguồn tài nguyên đất đai rộng lớn, màu mỡ, diện tích chưa sửdụng còn nhiều. Trong tổng quỹ đất tựnhiên 5.329 km 2 , có khoảng 1.000 km 2 là đất rừng, đại bộphận diện tích còn lại đều có thể sản xuất và NTTS. Nếu so sánh diện tích nuôi tôm và diện tích tựnhiên của Cà Mau với các tỉnh khác trong khu vực Đồng ĐBSCL sẽthấy được tiềm năng đặc biệt to lớn của ngành thủy sản Cà Mau. Đồng chí Nông Đức Mạnh có lần vềthăm Cà Mau đã khẳng định: "Cà Mau có thếmạnh là nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, cộng thêm lợi thếlà tỉnh có diện tích nuôi tôm, ngưtrường đánh bắt thủy sản vào bậc nhất cảnước. Cà Mau xứng đáng được TW đầu tưtrọng điểm nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản". Song song với những thuận lợi cũng nhưnhững kết quả đạt được, kinh tếthủy sản Cà Mau vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại như: chưa khai thác tốt tiềm năng vùng biển, hải đảo, ven biển và bên trong nội đồng; sản lượng khai thác lớn nhưng giá trịthấp; việc áp dụng tiến bộkhoa học - công nghệmới vào nuôi trồng, đánh bắt, chếbiến còn hạn chế; sản xuất thủy sản còn mang nặng tính tựphát, tôm bịdịch bệnh trên diện rộng và kéo dài nhưng chưa có khảnăng khắc phục được; năng suất, sản lượng và giá trịkhông cao, kim ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh,. Những khó khăn, tồn tại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơbản là vốn đầu tưcho ngành thủy sản đã qua chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành thủy sản. Do vốn đầu tưcòn hạn chếnên định hướng cơcấu vốn đầu tư trên từng lĩnh vực chưa chuyển biến nhanh theo hướng tích cực và có hiệu quảcao. Từnhững vấn đềnêu trên cần tìm ra giải pháp vềvốn đầu tưnhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển của ngành thủy sản trong thời gian tới, giúp cho ngành thủy sản phát huy các tiềm năng lợi thếcủa mình để đẩy nhanh tốc độtăng trưởng, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉtiêu kinh tế- xã hội của tỉnh, nhất là vốn đầu tưcho phát triển NTTS, chúng tôi chọn đềtài nghiên cứu luận văn là “Giải pháp vềvốn đầu tưcho phát triển nuôi trồng thủy sản ởtỉnh Cà Mau”.

pdf115 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3550 | Lượt tải: 8download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN BÉ GIẢI PHÁP VỀ VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU CHUYÊN NGÀNH : KINH TEÁ TÀI CHÍNH – NGAÂN HAØNG Mà SỐ : 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG NHỮNG TỪ VIẾT TẮT Nuôi trồng thủy sản NTTS Ngân hàng NH Đồng Bằng Sông Cửu Long ĐBSCL Đồng Bằng Sông Hồng ĐBSH Công nghiệp hóa CNH Hiện đại hóa HĐH Trung ương TW Tổng sản phẩm trên địa bàn GDP Công ty trách nhiện hữu hạn Cty TNHH Tổ chức thương mại thế giới WTO MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 5 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NTTS 5 1.1.1 Khái niệm nuôi trồng thủy sản 5 1.1.2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản 6 1.2. VAI TRÒ CỦA NTTS TRONG CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM 8 1.3. VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ VỐN TRONG PHÁT TRIỂN NTTS 21 1.3.1. Khái niệm về vốn 21 1.3.2. Vai trò của vốn trong phát triển NTTS 23 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 30 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN VÀ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, Xà HỘI CỦA TỈNH CÀ MAU 32 2.1.1 Đặc điểm về tự nhiên 32 2.1.2. Đặc điểm về xã hội 36 2.1.3. Đặc điểm về Kinh tế - Tài chính và đời sống dân cư 40 2.2. THỰC TRẠNG NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 47 2.2.1. Những thành quả đạt được 47 2.2.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra 60 2.3. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ CHO NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 64 2.3.1. Những kết quả đạt được 64 2.3.2. Những tồn tại cần hoàn thiện 68 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 72 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP VỀ VỐN CHO PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU 73 3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 73 3.1.1. Phát triển NTTS phải đạt hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo tính bền vững lâu dài, kết hợp kinh tế - xã hội và môi trường 73 3.1.2. Phát triển toàn diện và tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn vốn phù hợp với các loại hình NTTS (kể cả cá, tôm và thủy sản khác) 74 3.1.3. Đầu tư phát triển NTTS phải đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực 75 3.1.4. Đầu tư và cho vay NTTS phải đạt hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường cao 76 3.1.5. Đổi mới cơ cấu đầu tư và cho vay NTTS theo hướng đồng bộ từ xây dựng cơ sở hạ tầng đến đào tạo nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, sản xuất thức ăn thủy sản 77 3.1.6. Vốn phát triển NTTS của tỉnh cần hướng vào khai thác các 78 thế mạnh về đất đai, rừng ngập mặn, bãi bồi của từng vùng sinh thái, đồng thời kết hợp giữa nuôi trồng với chế biến và xuất khẩu sản phẩm tinh chế phù hợp với yêu cầu của thị trường 3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 79 3.2.1. Những giải pháp về quy hoạch và tổ chức sản xuất 79 3.2.2. Giải pháp tạo vốn 81 3.2.3. Giải pháp sử dụng vốn 85 3.3. CÁC GIẢI PHÁP HỔ TRỢ 90 3.3.1. Giải pháp về nguồn nhân lực 90 3.3.2. Giải pháp về thị trường tiêu thụ 91 3.3.3. Giải pháp về khoa học - công nghệ 91 3.3.4. Giải pháp về khuyến ngư 92 3.3.5. Giải pháp về khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển NNTS 92 3.3.6. Giải pháp về môi trường 93 3.3.7. Giải pháp về giống 94 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 94 KẾT LUẬN CHUNG 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Trong cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh Cà Mau, thủy sản đã được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong thời gian qua, hiện nay và cũng như trong tương lai kinh tế thủy sản sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Tiềm năng về phát triển kinh tế thủy sản của Cà Mau rất phong phú: có bờ biển dài 254 km, bao bọc ba mặt từ Đông sang Tây; có ngư trường rộng lớn khoảng 100.000 km2; có bãi biển rộng, bằng phẳng, nước không sâu lại có các cửa sông là nơi trú ẩn cho nhiều loài tôm, cá, … Ngư trường Cà Mau là 1 trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước, có trữ lượng lớn và đa dạng nguồn hải sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, cua, mực, ghẹ, cá hồng, cá lạc, cá đường, cá ngừ, cá bớp, cá chai, cá mú, … với 660 loài, 319 giống thuộc 138 họ, trong đó có 175 loài thuộc 116 giống và 77 họ đã được định danh. Trữ lượng các loài hải sản có thể khai thác ở ngư trường Cà Mau gồm: Vùng biển Đông có trữ lượng các tầng nổi 520 nghìn tấn, có khả năng khai thác 210 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữ lượng 800 nghìn tấn, có khả năng khai thác 400 nghìn tấn/năm. Vùng biển Tây có trữ lượng cá nổi 316 nghìn tấn, có khả năng khai thác 126 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữ lượng 470 nghìn tấn, có khả năng khai thác 235 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó, việc nuôi trồng tại khu vực mặt nước ven biển cũng rất thuận lợi, gồm các loại nhuyễn thể và các loại hai mảnh vỏ như: nghêu, sò huyết, các loại tôm, cua, cá nước mặn có giá trị cao trong tiêu dùng và xuất khẩu. NTTS ven biển, đặc biệt là nuôi tôm, đang phát triển nhanh chóng và trở thành thế mạnh của tỉnh Cà Mau. Vùng biển Cà Mau còn có nhiều đảo, cụm đảo ven bờ như: cụm đảo Hòn Khoai, đảo Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, một số bãi cát ven biển Đông của huyện Ngọc Hiển như: bãi Khai Long, bãi Giá Lồng Đèn, … và ven bờ biển là hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng. Đây là những điểm lý tưởng để tàu thuyền trú ẩn khi có bão, gió lớn hoặc biển động. Những cụm đảo nầy cũng có thể phát triển thành những trung tâm hậu cần nghề cá của tỉnh và khu vực. Ngoài ra, Cà Mau còn có hệ thống kinh rạch chằng chịt dài trên 7.000 km và diện tích mặt nước lớn, thuận lợi cho đánh bắt và NTTS. Cà Mau còn có nguồn tài nguyên đất đai rộng lớn, màu mỡ, diện tích chưa sử dụng còn nhiều. Trong tổng quỹ đất tự nhiên 5.329 km2, có khoảng 1.000 km2 là đất rừng, đại bộ phận diện tích còn lại đều có thể sản xuất và NTTS. Nếu so sánh diện tích nuôi tôm và diện tích tự nhiên của Cà Mau với các tỉnh khác trong khu vực Đồng ĐBSCL sẽ thấy được tiềm năng đặc biệt to lớn của ngành thủy sản Cà Mau. Đồng chí Nông Đức Mạnh có lần về thăm Cà Mau đã khẳng định: "Cà Mau có thế mạnh là nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, cộng thêm lợi thế là tỉnh có diện tích nuôi tôm, ngư trường đánh bắt thủy sản vào bậc nhất cả nước. Cà Mau xứng đáng được TW đầu tư trọng điểm nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản". Song song với những thuận lợi cũng như những kết quả đạt được, kinh tế thủy sản Cà Mau vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại như: chưa khai thác tốt tiềm năng vùng biển, hải đảo, ven biển và bên trong nội đồng; sản lượng khai thác lớn nhưng giá trị thấp; việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào nuôi trồng, đánh bắt, chế biến còn hạn chế; sản xuất thủy sản còn mang nặng tính tự phát, tôm bị dịch bệnh trên diện rộng và kéo dài nhưng chưa có khả năng khắc phục được; năng suất, sản lượng và giá trị không cao, kim ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh,... Những khó khăn, tồn tại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là vốn đầu tư cho ngành thủy sản đã qua chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành thủy sản. Do vốn đầu tư còn hạn chế nên định hướng cơ cấu vốn đầu tư trên từng lĩnh vực chưa chuyển biến nhanh theo hướng tích cực và có hiệu quả cao. Từ những vấn đề nêu trên cần tìm ra giải pháp về vốn đầu tư nhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển của ngành thủy sản trong thời gian tới, giúp cho ngành thủy sản phát huy các tiềm năng lợi thế của mình để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là vốn đầu tư cho phát triển NTTS, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu luận văn là “Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau”. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn: - Làm rõ tiềm năng, lợi thế và thực trạng về NTTS ở tỉnh Cà Mau. - Vạch rõ vai trò của vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn tín dụng NH, vốn nhân dân) đối với việc phát triển NTTS. - Đánh giá thực trạng vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn tín dụng NH, vốn nhân dân) cho việc phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau. - Đề xuất các giải pháp về vốn để thúc đẩy phát triển NTTS trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn: - Đối tượng nghiên cứu: là vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân đối với sự phát triển thủy sản ở tỉnh Cà Mau. - Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân trong lĩnh vực NTTS. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp để tăng cường, phát huy hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân trong lĩnh vực NTTS trên phạm vi toàn tỉnh. 4. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp, thống kê, phân tích, tổng hợp, đồ thị, dự báo ... kết hợp với nghiên cứu chọn lọc những kiến thức lý luận đã được đúc kết rút ra từ thực tiễn về tình hình triển khai thực hiện vốn đầu tư đối với sự phát triển NTTS. Luận văn cũng sử dụng các tài liệu, số liệu của Tổng cục Thống kê, Bộ Thủy sản, sở Thủy sản, sở Kế họach - Đầu tư, Cục thống kê, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh và một số đơn vị liên quan về số liệu thống kê, các báo cáo quy hoạch, báo cáo tổng kết, báo cáo tham luận về vốn đầu tư, về hoạt động của ngành thủy sản, ... 5. Tình hình nghiên cứu: Những giải pháp về vốn cho phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau là vấn đề chưa được nêu ra trong các công trình nghiên cứu trước đây ở tỉnh Cà Mau. Trong phần nghiên cứu nầy chúng tôi tập trung đề cập đến các vấn đề cơ bản của hoạt động NTTS, nhất là vấn đề vốn đầu tư cho phát triển NTTS trong thời qua và đề xuất các giải pháp cho thời gian tới. 6. Những đóng góp mới: - Hệ thống lại lý luận về vốn đầu tư cho phát triển NTTS. - Đánh giá toàn diện thực trạng NTTS và vốn đầu tư cho NTTS ở tỉnh Cà Mau. - Đề xuất các giải pháp về vốn để phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau trong những năm tới theo hướng CNH - HĐH. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: CHƯƠNG 1: Tổng quan về NTTS và vốn để phát triển NTTS. CHƯƠNG 2: Thực trạng về phát triển NTTS và vốn đầu tư cho NTTS ở tỉnh Cà Mau. CHƯƠNG 3: Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau . X W CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 1.1.1 Khái niệm nuôi trồng thủy sản. NTTS là hoạt động sản xuất dựa trên cơ sở kết hợp giữa tài nguyên thiên nhiên sẵn có (mặt nước biển, nước sông ngòi, ao hồ, ruộng trũng, sông cụt, đầm phá, khí hậu..) với hệ sinh vật sống dưới nước (chủ yếu là cá, tôm, và thủy sản khác..) có sự tham gia trực tiếp của con người. Hoạt động này ở Việt Nam bao gồm nuôi, trồng các loại thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu hiện nay là: tôm sú, tôm càng xanh, cá biển (cá song, cá hồng, cá cam, cá vược, cá bớp, cá chẽm, cá măng…), cá nước ngọt (cá tra, cá ba sa, cá chép, cá mè, rô phi, trê phi, trắm cỏ, cá trôi, bống tượng, tai tượng, cá quả, sặc rằn, cá lóc…) các hình thức nuôi chủ yếu là: - Nuôi tôm sú theo phương pháp công nghiệp và bán công nghiệp, quảng canh, quảng canh cải tiến. - Nuôi cá biển trong lồng bè trên mặt nước biển, sông, đầm phá, ven biển, sông cụt, chủ yếu là cá chẽm, cá mú, cá tra, cá ba sa, cá bống tượng, cá trôi, cá cá chép, cá mè, ba ba, lươn, ếch... - Nuôi tôm càng xanh. - Nuôi nhuyễn thể: ngao, nghêu, sò huyết, ốc.. - Nuôi thủy sản ao hồ, đìa, hầm. - Nuôi thủy sản trên ruộng trũng, ruộng lúa. - Trồng rong biển, các đối tượng chủ yếu là rong câu chỉ vàng, rong mơ, rong kỳ lân, rong cước và rong sụn. *Chủ thể nuôi: các tổ chức (DN, HTX, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân. Như vây, hoạt động NTTS rất đa dạng cả về phương thức nuôi, đối tượng nuôi, mặt nước nuôi trên cơ sở tận dụng các loại diện tích đất, mặt nước bỏ hoang, mặt nước biển, nước sông suối, dòng chảy, hồ thủy lợi, thủy điện... hoặc diện tích đất có mặt nước đang sử dụng kém hiệu quả trong nông nghiệp, lâm nghiệp. 1.1.2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản. NTTS có các đặc điểm như sau: - NTTS là một ngành phát triển trên phạm vi cả nước và có đối tượng phức tạp so với các ngành sản xuất khác. Tính chất rộng khắp của ngành thủy sản thể hiện nghề NTTS phát triển ở khắp các vùng trong nước từ đồng bằng, trung du, miền núi cho đến các vùng ven biển, ở đâu có diện tích mặt nước là ở đó có thể phát triển nghề NTTS. Song, mỗi vùng có điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết khác nhau nên có sự khác nhau về đối tượng sản xuất, về quy trình kỹ thuật, về mùa vụ sản xuất ... Do đó, trong công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành thủy sản cần lưu ý đến các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, chính sách giá cả, vốn đầu tư cho phù hợp đối với từng khu vực, từng vùng lãnh thổ. - Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tư liệu sản xuất đặt biệt không thể thay thế được. Nếu không có đất đai, diện tích mặt nước thì không thể tiến hành NTTS được. Đất đai không những là tư liệu sản xuất mà còn là tư liệu sản xuất đặc biệt, khác với các tư liệu sản xuất khác. Do diện tích đất đai, mặt nước có giới hạn, vị trí của chúng cố định, sức sản xuất của chúng thì không giới hạn và nếu biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, diện tích mặt nước không những không bị hao mòn đi mà còn tốt hơn (tức độ phì nhiêu, độ màu mỡ của đất đai, diện tích mặt nước ngày một tăng); mặt khác đất đai, diện tích mặt nước là tư liệu sản xuất không đồng nhất về mặt chất lượng do cấu tạo thổ nhưỡng, địa hình, vị trí dẫn đến độ màu mỡ của đất đai, diện tích mặt nước giữa các vùng thường là khác nhau. Chính vì vậy, khi sử dụng đất đai, diện tích mặt nước phải hết sức tiết kiệm, phải quản lý chặt chẽ đất đai diện tích mặt nước trên cả 3 mặt: pháp chế, kinh tế và kỹ thuật. - NTTS có tính thời vụ cao. Trong NTTS ngoài sự tác động trực tiếp của con người, các đối tượng nuôi còn chịu sự tác động của môi trường tự nhiên. Nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ là quy luật sinh trưởng và phát triển của các đối tượng nuôi trồng, những biểu hiện chủ yếu của tính thời vụ trong NTTS là: Ž Đối với mỗi đối tượng nuôi trồng, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển diễn ra trong các khoảng thời gian khác nhau của mùa vụ sản xuất nên đòi hỏi thời gian, hình thức và mức độ tác động trực tiếp của con người tới chúng cũng khác nhau. Có thời gian đòi hỏi lao động căng thẳng, có thời gian ít căng thẳng. Ž Cùng một đối tượng NTTS nhưng ở những vùng có điều kiện khí hậu, thời tiết khác nhau thường có mùa vụ sản xuất khác nhau. Ž Các đối tượng NTTS khác nhau có mùa vụ sản xuất khác nhau. Tính thời vụ trong NTTS có xu hướng dẫn tới tính thời vụ trong việc sử dụng các yếu tố sản xuất nhất là sức lao động, công cụ lao động và đất đai, diện tích mặt nước. Do điều kiện lao động thủ công, điều kiện tự nhiên, thời tiết diễn biến bất thường, tính thời vụ trong NTTS càng gây nên nhiều vấn đề phức tạp trong tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh. Mặt khác, tính thời vụ trong NTTS còn ảnh hưởng và đòi hỏi ngành thủy sản phải có kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt việc thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm (bao gồm cả xác định giá bán theo mùa cho phù hợp). - Đối tượng sản xuất của ngành NTTS là những cơ thể sống. Chúng sinh trưởng, phát sinh, phát triển và phát dục theo các quy luật sinh học. Do đó, trong quá trình sản xuất chúng luôn luôn đòi hỏi sự tác động thích hợp của con người và tự nhiên để sinh trưởng và phát triển. Vì thế, có hàng loạt các vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết để đạt năng suất các đối tượng NTTS cao như: nâng cao chất lượng con giống, quản lý chất lượng môi trường và xây dựng các quy trình sản xuất tiên tiến cho năng suất cao. - Một số sản phẩm thủy sản sản xuất ra được giữ lại làm giống để tham gia vào quá trình tái sản xuất vụ sau. Trong NTTS một số sản phẩm như: đàn cá thịt, tôm thịt được tuyển chọn làm cá bố mẹ hoặc tôm bố mẹ để cho đẻ trong quy trình sản xuất tiếp theo. Do đó, trong quá trình NTTS phải quan tâm đến việc sản xuất, nhân ra các loại giống tốt. Đồng thời, ngành thủy sản phải quan tâm xây dựng một hệ thống giống quốc gia, hệ thống giống cho từng vùng, từng khu vực. Ngoài những đặc điểm trên, NTTS Việt Nam còn có những đặc điểm riêng. Đó là: Ž Ngành NTTS Việt Nam có từ lâu đời, song hiện tại vẫn trong tình trạng của một nền sản xuất nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn là thủ công. Cơ cấu ngành thủy sản đang chuyển dịch theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Do đó, ngành NTTS phải thấy hết những tồn tại khó khăn của nền sản suất nhỏ, đó là: cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và quản lý của cán bộ, nông dân ở nhiều nơi, nhất là các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa còn quá yếu kém, tâm lý người sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu, ... để quản lý sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Phải nhận thức đúng tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong ngành NTTS, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thực hiện tốt những quy định của Nhà nước về đổi mới quản lý kinh tế trong NTTS. Ž Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước phân bố không đều giữa các vùng cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý NTTS. Đặc điểm này đòi hỏi ngành NTTS phải có kế hoạch khai thác, sử dụng đầy đủ các loại đất đai diện tích mặt nước hiện có; mặt khác phải tiến hành cân đối lao động, bồi dưỡng và nâng cao trình độ lao động, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Ž Nghề NTTS Việt Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới ẩm có pha trộn ít khí hậu vùng ôn đới. Tài nguyên khí hậu, một mặt tạo ra nhiều thuận lợi cho ngành NTTS: có thể nuôi trồng được nhiều đối tượng có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và những đối tượng có nguồn gốc từ các vùng ôn đới, đồng thời có thể nuôi được nhiều vụ trong một năm; mặt khác, khí hậu nước ta cũng gây ra những khó khăn phức tạp cho ngành NTTS như: bão lụt, gió mùa Đông Bắc, sương muối, các vùng ven biển sóng gió thủy triều, sóng thần, ... Do đó, ngành thủy sản cần có những phương án đề phòng để chinh phục và cải tạo thiên nhiên, đảm bảo năng suất sản lượng cao và ổn định. 1.2. VAI TRÒ CỦA NTTS TRONG CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM Sự phát triển của hoạt động NTTS đã trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế nói chung và nông, lâm nghiệp, thủy sản nói riêng ở nước ta. Trong điều kiện nguồn lợi thủy sản ven bờ bị cạn kiệt, khai thác thủy sản xa bờ có nhiều khó khăn do thiên tai, bão lũ, chi phí lớn, phương tiện hiện đại đầu tư lớn thì NTTS là hướng phát triển ổn định và lâu dài đối với các nước có biển cũng như không có biển. Vai trò của hoạt động NTTS đối với phát triển kinh tế - xã hội thể hiện trên nhiều mặt: thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn, nhất là vùng ven biển; tạo nguồn nguyên liệu quý giá cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu; tạo việc làm tăng thu nhập cho dân cư nhất là vùng nông thôn ven biển; bảo vệ môi trường sinh thái; góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy hải sản tự nhiên trên sông, biển. Nhận thức được vai trò đó, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và đánh giá cao vai trò của NTTS trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước trong mọi giai đoạn. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta; vai trò của thủy sản nói chung và NTTS nói riêng càng được coi trọng. Chính phủ đã xây dựng Chương trình phát triển NTTS từ năm 2000-2010 theo Quyết định số 224/1999/QĐ/TTg ngày 08/12/1999, trong đó xác định mục tiêu "Phát triển NTTS nhằm đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm và tạo nguồn nguyên
Luận văn liên quan