Luận văn Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai

1. Tính cấp thiết của đề tài Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống và diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta, là cấp trực tiếp tổ chức, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta có những đặc điểm riêng khác với ở phường, thị trấn và các xã vùng đồng bằng. Bởi vì, nơi đây có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng; trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp; tính đa diện trong văn hóa tộc người; trình độ dân trí chưa cao; sự phức tạp, nhạy cảm trong vấn đề dân tộc, tôn giáo Chính những đặc điểm ấy đã làm cho vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi trở nên đặc biệt quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng của địa phương. Thời gian qua, với sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta đã từng bước được kiện toàn, đạt hiệu quả cao trong tổ chức và hoạt động. Tuy vậy, hệ thống chính trị vùng này vẫn còn những yếu kém và hạn chế cần khắc phục như: chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ thống chính trị cấp xã; nội dung và phương thức hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi; trình độ văn hóa, quản lý và năng lực điều hành công việc thực tiễn của cán bộ cấp xã vùng dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều hạn chế Điều này càng bộc lộ rõ hơn trong giai đoạn dân chủ hóa hiện nay, nhất là từ khi thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (1998) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007). Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam, đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện, với 164 xã, phường, thị trấn, trong đó có 138 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Địa bàn tỉnh cũng là nơi sinh sống và cư trú của 13 dân tộc với 25 nhóm ngành khác nhau, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 64,09 % dân số. Nhìn chung, các dân tộc anh em cùng chung sống hoà thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của tỉnh cần đặc biệt quan tâm đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mục tiêu là tăng cường khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của các xã để đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng cuộc sống văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là cần phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai, việc kiện toàn hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp xã đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị cấp xã đã được kiện toàn theo hướng gần dân, vì dân hơn; phương pháp công tác và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ xã được đổi mới. Năng lực chỉ đạo, điều hành và quản lý của chính quyền cấp cấp xã có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên; cải cách thủ tục hành chính bước đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới về nội dung và phương thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp uỷ đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng tăng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai vẫn đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ: Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ xã ít được đào tạo, bồi dưỡng Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào và những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị các cấp để nói xấu Đảng, Nhà nước, hòng làm mất lòng tin của đồng bào vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính trị ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay là nhiệm vụ hết sức bức thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của hệ thống chính trị trong đời sống xã hội, việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung, về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trên từng khu vực, vùng, miền, địa phương và vai trò của chúng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu trên những bình diện khác nhau, qua đó hình thành nhiều ấn phẩm có giá trị ở cả tầm lý luận và thực tiễn. Điển hình là: Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội, nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (2000), đã phân tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Công trình đã đánh giá các thành tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống chính trị của khu vực này. Bộ sách: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" (2001), "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (2003), “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” (2005) do TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên. Các công trình này nhằm làm rõ về nông thôn Việt Nam hiện nay; làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trương, chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đồng thời cũng định hình được mối quan hệ biện chứng giữa vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn Việt Nam. Công trình “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên”, do Phạm Hảo và Trương Minh Dục đồng chủ biên (2003), từ nghiên cứu hoạt động của hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên (nhất là cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số), các tác giả đã đề ra một số phương hướng và giải pháp kiện toàn hệ thống này, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay” do Hoàng Chí Bảo chủ biên (2004), đã làm rõ lịch sử và lý luận về làng xã và hệ thống chính trị ở cơ sở nước ta; nêu rõ cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay và đề ra một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hoạt động của hệ thống này. “Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đức Ngọc (Luận án tiến sĩ triết học 2009), qua nghiên cứu hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm, tác giả đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế và yếu kém trong tổ chức và hoạt động của hệ thống này cũng như nguyên nhân của nó. Từ đó, xác định quan điểm, phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. “Đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II” của Giàng Seo Phử (Tạp chí Cộng sản, số 816/2010), bài viết khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (giai đoạn 2006 - 2010) được thực hiện trên địa bàn 50 tỉnh của đất nước. Từ những con số cụ thể, tác giả đã có những đánh giá sát thực, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm hết sức quý giá nhằm tiếp tục thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo giai đoạn II đạt kết quả cao hơn. “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các mục tiêu, kế hoạch đề ra” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản, số 829/2011), bài viết đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội đất nước, nguyên nhân của những khó khăn, thách thức hiện nay và xu hướng phát triển trong thời gian tới. Từ đó, định hướng các giải pháp chủ yếu mà cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến thực sự trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bên cạnh đó nhấn mạnh định hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh năng lượng Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề náy dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Văn phòng Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của Hồ Minh Dức (Dân vận, số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền Oanh (Nxb Lý luận chính trị, H.2005); “Tồn tại và không nên tồn tại HĐND cấp nào?” của Trần Hữu Trí (Đại Đoàn kết, số 139/2007); “Giả pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn ở Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Khánh Mậu (Khoa học Chính trị, số 2/2007); “Đổi mới hệ thống chính trị để phát huy dân chủ” của Đoàn Minh Duệ (Triết học, số 9/2007) Như vậy, nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng từng khu vực, vùng dân tộc cụ thể đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song chưa có một công trình khoa học nào trực tiếp bàn về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, trong khi đối tượng nghiên cứu này đang đặt ra những vấn đề cần được giải quyết kể cả ở tầm lý luận và thực tiễn. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề trên trong khuôn khổ một Luận văn Thạc sỹ Triết học (chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học) với hy vọng góp phần nhất định vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã nói chung và hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng của tỉnh Lào Cai. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích Từ việc nghiên cứu mặt mạnh, mặt yếu và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. Nhiệm vụ - Hệ thống hoá quan niệm về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vai trò của nó đối với sự phát triển. - Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính trị ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (không bao gồm: các phường, thị trấn) của tỉnh Lào Cai trong những năm đầu thế kỷ XXI. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tỉnh Lào Cai về những vấn đề liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Quá trình giải quyết những nội dung trong luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp của phép biện chứng duy vật (như phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gic, hệ thống và cấu trúc ), các phương pháp so sánh, điều tra, thống kê, nghiên cứu văn bản 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với sự phát triển của những vùng này ở tỉnh Lào Cai. - Từ việc xác định rõ những vấn đề đang đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, luận văn đề ra quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở cho các cấp lãnh đạo, quản lý tỉnh Lào Cai tham khảo, vận dụng trong việc đề ra các chính sách riêng, phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn trong việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc trong tỉnh. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập về hệ thống chính trị cấp xã ở trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.

doc123 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5982 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống và diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta, là cấp trực tiếp tổ chức, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta có những đặc điểm riêng khác với ở phường, thị trấn và các xã vùng đồng bằng. Bởi vì, nơi đây có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng; trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp; tính đa diện trong văn hóa tộc người; trình độ dân trí chưa cao; sự phức tạp, nhạy cảm trong vấn đề dân tộc, tôn giáo…Chính những đặc điểm ấy đã làm cho vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi trở nên đặc biệt quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng của địa phương. Thời gian qua, với sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta đã từng bước được kiện toàn, đạt hiệu quả cao trong tổ chức và hoạt động. Tuy vậy, hệ thống chính trị vùng này vẫn còn những yếu kém và hạn chế cần khắc phục như: chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ thống chính trị cấp xã; nội dung và phương thức hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi; trình độ văn hóa, quản lý và năng lực điều hành công việc thực tiễn của cán bộ cấp xã vùng dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều hạn chế…Điều này càng bộc lộ rõ hơn trong giai đoạn dân chủ hóa hiện nay, nhất là từ khi thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (1998) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007). Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam, đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện, với 164 xã, phường, thị trấn, trong đó có 138 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Địa bàn tỉnh cũng là nơi sinh sống và cư trú của 13 dân tộc với 25 nhóm ngành khác nhau, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 64,09 % dân số. Nhìn chung, các dân tộc anh em cùng chung sống hoà thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của tỉnh cần đặc biệt quan tâm đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mục tiêu là tăng cường khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của các xã để đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng cuộc sống văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là cần phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai, việc kiện toàn hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp xã đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị cấp xã đã được kiện toàn theo hướng gần dân, vì dân hơn; phương pháp công tác và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ xã được đổi mới. Năng lực chỉ đạo, điều hành và quản lý của chính quyền cấp cấp xã có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên; cải cách thủ tục hành chính bước đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới về nội dung và phương thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp uỷ đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng tăng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai vẫn đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ: Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ xã ít được đào tạo, bồi dưỡng… Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào và những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị các cấp để nói xấu Đảng, Nhà nước, hòng làm mất lòng tin của đồng bào vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính trị ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay là nhiệm vụ hết sức bức thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của mình. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của hệ thống chính trị trong đời sống xã hội, việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung, về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trên từng khu vực, vùng, miền, địa phương và vai trò của chúng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu trên những bình diện khác nhau, qua đó hình thành nhiều ấn phẩm có giá trị ở cả tầm lý luận và thực tiễn. Điển hình là: Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội, nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (2000), đã phân tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Công trình đã đánh giá các thành tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống chính trị của khu vực này. Bộ sách: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" (2001), "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (2003), “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” (2005) do TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên. Các công trình này nhằm làm rõ về nông thôn Việt Nam hiện nay; làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trương, chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đồng thời cũng định hình được mối quan hệ biện chứng giữa vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn Việt Nam. Công trình “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên”, do Phạm Hảo và Trương Minh Dục đồng chủ biên (2003), từ nghiên cứu hoạt động của hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên (nhất là cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số), các tác giả đã đề ra một số phương hướng và giải pháp kiện toàn hệ thống này, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay” do Hoàng Chí Bảo chủ biên (2004), đã làm rõ lịch sử và lý luận về làng xã và hệ thống chính trị ở cơ sở nước ta; nêu rõ cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay và đề ra một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hoạt động của hệ thống này. “Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đức Ngọc (Luận án tiến sĩ triết học 2009), qua nghiên cứu hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm, tác giả đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế và yếu kém trong tổ chức và hoạt động của hệ thống này cũng như nguyên nhân của nó. Từ đó, xác định quan điểm, phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. “Đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II” của Giàng Seo Phử (Tạp chí Cộng sản, số 816/2010), bài viết khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (giai đoạn 2006 - 2010) được thực hiện trên địa bàn 50 tỉnh của đất nước. Từ những con số cụ thể, tác giả đã có những đánh giá sát thực, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm hết sức quý giá nhằm tiếp tục thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo giai đoạn II đạt kết quả cao hơn. “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các mục tiêu, kế hoạch đề ra” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản, số 829/2011), bài viết đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội đất nước, nguyên nhân của những khó khăn, thách thức hiện nay và xu hướng phát triển trong thời gian tới. Từ đó, định hướng các giải pháp chủ yếu mà cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến thực sự trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bên cạnh đó nhấn mạnh định hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh năng lượng và giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề náy dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Văn phòng Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của Hồ Minh Dức (Dân vận, số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền Oanh (Nxb Lý luận chính trị, H.2005); “Tồn tại và không nên tồn tại HĐND cấp nào?” của Trần Hữu Trí (Đại Đoàn kết, số 139/2007); “Giả pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn ở Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Khánh Mậu (Khoa học Chính trị, số 2/2007); “Đổi mới hệ thống chính trị để phát huy dân chủ” của Đoàn Minh Duệ (Triết học, số 9/2007)… Như vậy, nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng từng khu vực, vùng dân tộc cụ thể đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song chưa có một công trình khoa học nào trực tiếp bàn về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, trong khi đối tượng nghiên cứu này đang đặt ra những vấn đề cần được giải quyết kể cả ở tầm lý luận và thực tiễn. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề trên trong khuôn khổ một Luận văn Thạc sỹ Triết học (chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học) với hy vọng góp phần nhất định vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã nói chung và hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng của tỉnh Lào Cai. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích Từ việc nghiên cứu mặt mạnh, mặt yếu và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. Nhiệm vụ - Hệ thống hoá quan niệm về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vai trò của nó đối với sự phát triển. - Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính trị ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (không bao gồm: các phường, thị trấn) của tỉnh Lào Cai trong những năm đầu thế kỷ XXI. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tỉnh Lào Cai về những vấn đề liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Quá trình giải quyết những nội dung trong luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp của phép biện chứng duy vật (như phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gic, hệ thống và cấu trúc…), các phương pháp so sánh, điều tra, thống kê, nghiên cứu văn bản… Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với sự phát triển của những vùng này ở tỉnh Lào Cai. - Từ việc xác định rõ những vấn đề đang đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, luận văn đề ra quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở cho các cấp lãnh đạo, quản lý tỉnh Lào Cai tham khảo, vận dụng trong việc đề ra các chính sách riêng, phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn trong việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc trong tỉnh. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập về hệ thống chính trị cấp xã ở trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1. QUAN NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA 1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị cấp xã Chính trị và hệ thống chính trị - với những quan hệ và hoạt động đặc thù của chúng - là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất, là con đẻ của giai đoạn lịch sử nhất định trong sự phát triển của nền văn minh loài người, hay nói chính xác hơn là thời gian xuất hiện các giai cấp và mâu thuẫn đối kháng giai cấp. Và như vậy, từ khi xuất hiện các giai cấp và đối kháng giai cấp cho tới khi nào mức năng suất lao động của con người còn chưa đạt tới ranh giới cho phép xóa bỏ những khác biệt giai cấp trong việc thừa hưởng phúc lợi vật chất, chưa xóa bỏ sự khác biệt giai cấp thì chính trị, hệ thống chính trị và tổ chức chính trị của xã hội, trước và sau này cũng vậy, vẫn sẽ là những thuộc tính của đời sống xã hội. Trong mọi xã hội có giai cấp, đối kháng giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, hệ thống chính trị gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã hội, nhưng giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh hằng. Loài người đã và sẽ trải qua các thời kỳ khác nhau của xã hội: xã hội chưa có giai cấp và đối kháng giai cấp; xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp; và cuối cùng, lại trở về xã hội không có giai cấp và đối kháng giai cấp, nhưng ở một trình độ cao hơn. Từ một xã hội này chuyển sang một xã hội khác phải trải qua những thời kỳ quá độ khác nhau và để chuyển từ một xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp sang một xã hội không còn giai cấp và đối kháng giai cấp tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài - thời kỳ chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản, thời kỳ tồn tại hệ thống chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ở nước ta, mặc dù khái niệm hệ thống chính trị mới chỉ được đề cập, sử dụng trong các văn kiện chính trị và các tài liệu khoa học từ sau đổi mới (1986). Song, trên thực tế, hệ thống chính trị nước ta đã được hình thành và phát triển gần 70 năm, như một hệ thống quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI), tháng 3 năm 1989, Đảng ta lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản được sử dụng trước đó. Theo đó, hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta là một chỉnh thể bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việc sử dụng khái niệm HTCT trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản vừa kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, vừa phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng thời đáp ứng được nhu cầu đổi mới trên lĩnh vực chính trị của xã hội ta nói riêng, nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước ta nói chung. Như vậy, khái niệm HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hiểu là một hệ thống tổ chức bộ máy, hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam (vai trò lãnh đạo); Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân (vai trò quản lý); Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân (Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh), có vai trò tập hợp lực lượng, thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, hiệp trương chính trị, hợp tác và phát triển xã hội. Đây là các tổ chức hợp pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, được nhà nước bảo trợ, hoạt động công khai, nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo chiều dọc, cấu trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống. Cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể) được quy định theo từng cấp với vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền khác nhau, thể hiện mối quan hệ thứ bậc giữa cấp trên và cấp dưới trong phạm vi một tổ chức. Hệ thống chính trị ở nước ta được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa phương và cơ sở, phản ánh sự phân cấp về quyền lực trong HTCT.
Luận văn liên quan