Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng hoá chính là mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Nhất là trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay cũng như trên toàn cầu, nó là điều bức xúc khiến những người làm kinh tế phải quan tâm.
Những năm gần đây, sự hình thành nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, sự phát triển nhanh chóng của cung cầu trên thị trường làm cho khối lượng hàng hoá cung ứng đã vượt quá nhu cầu của thị thường, đồng thời sự phát triển phong phú đa dạng của nhu cầu làm cho cung trở nên lạc hậu. Cho nên tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm mà cả đối với nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay các doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh và đều bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, liên doanh tự nguyện, phải tự mình lựa chọn hướng sản xuất kinh doanh và làm sao đề ra phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đơn vị kinh tế nào tổ chức tốt nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, tiết kiệm chi phí bán hàng, đảm bảo sản phẩm có chất lượng cao, được người tiêu dùng chấp nhận là cơ sở quan trọng nhất để tạo uy tín cho nhãn hiệu hàng hoá sẽ có điều kiện tồn tại và phát triển. Ngược lại đơn vị nào không bán được hàng hoá của mình và xác định không chính xác kết quả kinh doanh sẽ dẫn đến tình trạng "lỗ thật, lãi giả". dần dần sẽ đưa doanh nghiệp tới tình trạng hoạt động kinh doanh kém hiệu quả và đi tới phá sản. Thực tế nền kinh tế quốc dân đã và đang cho thấy điều đó.
Là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, Nhà máy Thiết bị Bưu điện, trong guồng quay sôi động của thị thường, cũng coi vấn đề tiêu thụ sản phẩm là vấn đề quan trọng hàng đầu. Một trong những công cụ giúp cho công tác tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao là kế toán nói chung và kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh nói riêng.
Xuất phát từ vai trò vị trí tầm quan trọng của bán hàng và xác định kết quả kinh doanh, trong thời gian thực tập tại Nhà máy Thiết bị Bưu Điện, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện” cho Luận văn Tốt nghiệp của mình.
Nội dung của Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận gồm có 3 phần:
- Phần I: Lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
- Phần II: Thực tế về công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện
- Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Nhà máy Thiết bị bưu điện.
100 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2542 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại nhà máy thiết bị bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng hoá chính là mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Nhất là trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay cũng như trên toàn cầu, nó là điều bức xúc khiến những người làm kinh tế phải quan tâm.
Những năm gần đây, sự hình thành nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, sự phát triển nhanh chóng của cung cầu trên thị trường làm cho khối lượng hàng hoá cung ứng đã vượt quá nhu cầu của thị thường, đồng thời sự phát triển phong phú đa dạng của nhu cầu làm cho cung trở nên lạc hậu. Cho nên tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm mà cả đối với nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay các doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh và đều bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, liên doanh tự nguyện, phải tự mình lựa chọn hướng sản xuất kinh doanh và làm sao đề ra phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đơn vị kinh tế nào tổ chức tốt nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, tiết kiệm chi phí bán hàng, đảm bảo sản phẩm có chất lượng cao, được người tiêu dùng chấp nhận là cơ sở quan trọng nhất để tạo uy tín cho nhãn hiệu hàng hoá sẽ có điều kiện tồn tại và phát triển. Ngược lại đơn vị nào không bán được hàng hoá của mình và xác định không chính xác kết quả kinh doanh sẽ dẫn đến tình trạng "lỗ thật, lãi giả". dần dần sẽ đưa doanh nghiệp tới tình trạng hoạt động kinh doanh kém hiệu quả và đi tới phá sản. Thực tế nền kinh tế quốc dân đã và đang cho thấy điều đó.
Là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, Nhà máy Thiết bị Bưu điện, trong guồng quay sôi động của thị thường, cũng coi vấn đề tiêu thụ sản phẩm là vấn đề quan trọng hàng đầu. Một trong những công cụ giúp cho công tác tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao là kế toán nói chung và kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh nói riêng.
Xuất phát từ vai trò vị trí tầm quan trọng của bán hàng và xác định kết quả kinh doanh, trong thời gian thực tập tại Nhà máy Thiết bị Bưu Điện, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện” cho Luận văn Tốt nghiệp của mình.
Nội dung của Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận gồm có 3 phần:
- Phần I: Lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
- Phần II: Thực tế về công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện
- Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Nhà máy Thiết bị bưu điện.
PHẦN I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1.1 Quá trình bán hàng và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường với mục tiêu thu lợi nhuận tối đa. Để đạt được mục tiêu này, sau khi sản xuất hoàn thành tạo ra sản phẩm các doanh nghiệp phải thông qua quá trình bán hàng đưa sản phẩm đến với khách hàng.
Vậy: Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá gắn với lợi ích hoặc rủi ro cho khách hàng, đồng thời được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán
Xét về mặt chu chuyển vốn thì bán hàng là quá trình chuyển từ vốn thành phẩm hàng hoá sang vốn bằng tiền vốn. Như vậy, quá trình bán hàng là quá trình vận động ngược chiều của hàng và tiền. Kết thúc quá trình này khách hàng có được hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của mình, còn doanh nghiệp thu được tiền để tái sản xuất mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, bán hàng là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp thu hồi vốn tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Để thực hiện quá trình bán hàng doanh nghiệp phải chi ra các khoản chi phí : chi phí sản xuất để có sản phẩm, hàng hoá, chi phí cho hoạt động tiêu thụ, hoạt động quản lý và sau quá trình bán hàng doanh nghiệp sẽ thu được một khoản tiền về bán sản phẩm, hàng hoá gọi là doanh thu bán hàng.
Doanh thu bán hàng.
Đối với doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hóa cung ứng lao vụ dịch vụ chưa có thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà doanh nghiệp được hưởng.
Đối với doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hóa hoặc cung ứng lao vụ dịch vụ ( tổng giá thanh toán ) và các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà doanh nghiệp được hưởng.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Là chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ của số hàng đã bán sau khi trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu với chi phí bỏ ra (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp) của số hàng đó, biểu hiện bằng số tiền lãi hay lỗ. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Như vậy kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình bán hàng. Tổ chức tốt quá trình bán hàng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt và ngược lại. Nếu quá trình bán hàng không được thực hiện thì kết quả hoạt động kinh doanh sẽ không cao thậm chí còn bị giảm đi.
1.1.2. Ý nghĩa quá trình bán hàng và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
Ngay từ khi nền kinh tế hàng hoá xuất hiện thì bán hàng cũng ra đời. Nó tồn tại cùng sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá như một cách thức để thoả mãn nhu cầu sản xuất và duy trì nó.
Kết quả kinh doanh là hiệu qủa trực tiếp của quá trình bán hàng . Nó cho biết quá trình bán hàng được tổ chức tốt hay không tốt, có hiệu quả hay kém hiệu quả.
Mục tiêu cao nhất của một doanh nghiệp sản xuất thông thường là tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Muốn tổ chức sản xuất kinh doanh tốt doanh nghiệp phải xác định được những vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu của thị trường, xu hướng nhu cầu của thị trường phương thức sản xuất và nhóm khách hàng mình phục vụ. Nhu cầu là mục tiêu sản xuất, nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu thị trường, tiêu thụ tốt hơn thì sẽ đem lại lợi nhuận cao . Khi đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất, tăng quy mô liên doanh. Và tất nhiên để sản phẩm hàng hoá đến tay khách hàng đòi hỏi phải tổ chức tốt quá trình bán hàng.
Như vậy, quá trình bán hàng và kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là một mắt xích quan trọng không thể thiếu để doanh nghiệp đạt được mục đích của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay bán hàng và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn thể hiện những ý nghĩa cơ bản đối với doanh nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Thông qua quá trình bán hàng sẽ thu hồi vốn để bù đắp cho những chi phí đã bỏ ta trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Nói cách khác,bán hàng sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội.
- Trên giác độ chu chuyển vốn, đẩy nhanh quá trình bán hàng là một nhân tố góp phần thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm các khoản chi phí trong khâu tiêu thụ, góp phần hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Cuối cùng hiệu suất sử dụng vốn không ngừng được nâng cao.
- Trên góc độ kinh tế vĩ mô, quá trình bán hàng ở mọi doanh nghiệp được thực hiện tốt góp phần điều hoà sản xuất và tiêu dùng tiền và hàng đảm bảo cho sự cân đối trong ngành cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Đẩy nhanh được quá trình bán hàng cũng nghĩa là doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường, sản phẩm doanh nghiệp đã được xã hội chấp nhận, thể hiện cho sự đóng góp cho xã hội của doanh nghiệp, góp phần tăng doanh thu GDP cho nền kinh tế.
- Kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh được tạo ra từ quá trình bán hàng biểu hiện bằng số lãi hoặc lỗ, là nguồn để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, là nguồn để phân phối cho các chủ sở hữu, thực hiện với nghĩa vụ nhà nước, người cung cấp, cải thiện đời sống người lao động… kết qủa bán hàng là nguồn đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu tài chính quan trọng và cơ bản phản ánh tổng quát hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sự lành mạnh của tình hình tài chính, hai điều kịên quýêt định mở ra khả năng tham gia của thị trường vốn của doanh nghiệp . Thông qua thị trường này doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn từ xã hội dưới hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu để đầu tư mở rộng quy mô, tăng lực sản xuất
- Ngoài ra, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, tiêu thụ tốt sản phẩm của từng doanh nghiệp có thể làm tăng uy tín và sức cạnh tranh của đất nước trên trường quốc tế, cân bằng cán cân thương mại.
1.1.3 Yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và KQHĐSXKD:
Việc bán hàng liên quan đến từng khách hàng, từng phương thức tiêu thụ, từng thể thức thanh toán, từng loại thành phẩm nhất định, do đó công tác quản lý tiêu thụ thành phẩm cần bám sát các yêu cầu cơ bản sau:
- Quản lý vận động và số hiện có của từng loại sản phẩm hàng hóa theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng và chủng loại và giá trị của chúng.
- Quản lý chất lượng, cải tiến mẫu mã và xây dựng thương hiệu là mục tiêu cho phát triển bển vững doanh nghiệp
- Tìm hiểu khai thác và mở rộng thị trường, áp dụng các phương thức bán hàng phù hợp, các chính sách bán hàng hậu mãi nhằm không ngừng tăng doanh thu giảm chi phí các hoạt động
- Giám sát chặt chẽ chi phí bán hàng và phản ánh đầy đủ kịp thời doanh thu bán hàng, xác định đứng đắn giá vốn bán hàng và chi phí quản lý kinh doanh nghiệp phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ, từ đó xác định chính xác kết quả bán hàng tối đa hoá lợi nhuận.
Quá trình bán hàng và kết quả HĐSXKD có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, cũng như liên quan đến lợi ích của nhiều bên, vì vậy quản lý chặt chẽ quá trình bán hàng bằng một công cụ thích hợp, đủ sắc bén, đảm bảo tính hiệu qủa là tất yếu khách quan
1.1.4 Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả HĐSXKD:
Để đáp ứng các yêu cầu quản lý về hàng hoá, thành phẩm và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán bán hàng và xác định kết quả HĐSXKD phải thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời chính xác tình hình hiện có và sự biến động của từng loại sản phẩm, hàng hoá theo chỉ tiêu số lượng, chủng loại và giá trị.
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ kịp thời và chính xác các khoản doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu và chi phí của từng hoạt động trong doanh nghiệp, đồng thời theo dõi và đôn đốc các khoản phải thu của khách hàng.
- Phản ánh và tính toán chính xác kết quả của từng hoạt động, giám sát tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước và tình hình phân bố kết qủa các hoạt động.
- Cung cấp các thông tin kế toán phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và định kỳ phân tích hoạt động kinh tế liên quan đến quá trình bán hàng và xác định kết quả.
Xuất phát từ ý nghĩa của quá trình bán hàng và kết quả HĐSXKD, từ yêu cầu và nhiệm vụ của kế toán bán hàng xác định kết quả thì việc tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng xác định kết quả là một yêu cầu khách quan hết sức cần thiết.
Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả HĐSXKD, ngoài việc tổ chức hệ thống chứng từ và luân chuyển chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, hình thức thanh toán, kiểm tra kế toán khoa học, hợp lý yêu cầu, chính sách chế độ nhà nước còn phải phù hợp với đặc điểm và tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu qủa phải đảm bảo phát huy vai trò của kế toán trong việc quản lý các hoạt động kinh tế tài chính.
1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ HĐSXKD TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT:
1.2.1 Các phương thức bán hàng và phương thức thanh toán áp dụng trong doanh nghiệp:
1.2.1.1 Phương thức bán hàng
Phương thức bán hàng là cách thức doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu thành phẩm, hàng hoá cho khách hàng và thu được tiền hoặc uỷ quyền thu tiền về số hàng tiêu thụ.
Để tăng được số lượng sản phẩm, hàng hóa bán ra nhằm thu được lợi nhuậntối đa, các doanh nghiệp không thể chỉ sử dụng một phương thức bán hàng cố định mà trong từng trường hợp cụ thể sẽ áp dụng các phương thức bán hàng khác nhau một cách linh hoạt. Hiện nay, các doanh nghiệp thường sử dụng các phương thức bán hàng chủ yếu sau:
- Phương thức bán hàng trực tiếp: theo phương thức này sau khi hoàn tất thủ tục bán hàng: viết hoá đơn GTGT, phiếu xuất kho hoặc căn cứ vào hợp đồng đã ký, khách hàng sẽ được nhận hàng ngay từ kho hoặc tại phân xưởng nếu sản xuất xong chưa nhập kho. Khi đó hàng được xác định là đã bán và thuộc sở hữu của khách hàng còn doanh nghiệp thu được tiền ngay hoặc được quyền thu tiền về số hàng đã bán.
- Phương thức gửi hàng: theo phương thức này định kỳ doanh nghiệp gửi hàng cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng mua bán giữa hai bên và giao hàng tại địa điểm quy ước trong hợp đồng. Từ khi xuất kho gửi đi cho đến lúc khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì hàng vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Chỉ sau đó hàng mới được xác nhận là bán và chuyển quyền sở hữu cho khách hàng.
- Phương thức bán hàng đại lý: theo phương thức này doanh nghiệp xuất giao cho đại lý để đại lý tiêu thụ. Từ khi giao hàng cho đến thời điểm được xác định là đã tiêu thụ thì số hàng này vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Đại lý sẽ hưởng thù lao dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
- Phương thức hàng đổi hàng: trong trường hợp này, doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu thành phẩm hàng hoá của mình cho khách hàng để đổi lấy quyền sở hữu thành phẩm hàng hoá của họ chứ không lấy tiền.
1.2.1.2. Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là cách thức khách hàng trả tiền về số hàng đã mua cho doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm và tình hình của mình mà các doanh nghiệp lựa chọn các phương thức thanh toán phù hợp những phương thức bán hàng chủ yếu các doanh nghiệp thường áp dụng là:
- Bán hàng thu tiền ngay: theo phương thức này thời điểm doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng cũng là thời điểm doanh nghiệp thu được tiền.
- Phương thức thanh toán trả chậm: theo phương thức này sau khi doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá cho khách hàng thì chưa nhận được ngay tiền hàng mà khách hàng mới chỉ chấp nhận thanh toán.
- Phương thức thanh toán trả góp: là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần và người mua phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định trên số tiền chưa trả còn lại chỉ khi nào thanh toán hết tiền hàng người mua mới được quyền sở hữu lượng hàng này.
- Khách hàng ứng trước tiền hàng: theo phương thức này khách hàng đã trả tiền trước cho hàng mua và chỉ khi doanh nghiệp xuất giao hàng cho khách hàng trong phạm vi số tiền ứng trước mới thuộc sở hữu doanh nghiệp.
- Thanh toán bù trừ: trong trường hợ này khách hàng mua hàng của doanh nghiệp đồng thời là người cung cấp hàng hoá dịch vụ cho doanh nghiệp. Khi đó doanh nghiệp và khách hàng sẽ tiến hành toán toán bù trừ.
- Phương thức bán hàng và phương thức thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng đối với kế toán doanh thu bán hàng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định thời điểm tiêu thụ, hình thành và ghi nhận doanh thu bán hàng. Vì vậy cần đa dạng hoá phương thức bán hàng và phương thức thanh toán để tạo điều kiện tăng doanh thu bán hàng, tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.2.2. Doanh thu bán hàng, các khoản giảm trừ doanh thu
1.2.2.1. Doanh thu bán hàng và điều kiện ghi nhận doanh thu bán hàng
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là toàn bộ số tiền thu được hoặc sẽ thu được từ các giao dịch và nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho khách hàng bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm.
Ngoài ra giá trị của các sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng trao đổi hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp cũng được ghi nhận là doanh thu.
- Điều kiện ghi nhận doanh thu bán hàng: doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thoả mãn năm điều kiện sau:
+ Doanh nghiệp chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
+ Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
+ Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
+ Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng.
+ Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Trên thực tế, không nhất thiết phải thoả mãn 5 điều kiện trên mới được ghi nhận doanh thu bán hàng mà doanh thu bán hàng cũng có thể được ghi nhận khi có đủ điều kiện sau:
+ Doanh nghiệp đã chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho khách hàng.
+ Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán về số hàng đã mua.
Tuỳ theo từng phương thức thanh toán để xác định thời điểm ghi nhận doanh thu. Với mỗi phương thức thanh toán khác nhau, thời điểm ghi nhận doanh thu cũng khác nhau: Doanh thu trả ngay, doanh thu trả chậm, doanh thu trả góp…
1.2.2.2. Các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng
Quá trình bán hàng không phải lúc nào cũng thuận lợi và doanh thu bán hàng trong kỳ của doanh nghiệp cũng luôn luôn biến động. Số tiền thu được từ việc bán hàng hoá của doanh nghiệp có thể bị giảm đi do các khoản giảm trừ doanh thu tác động đến. Các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng trong doanh nghiệp thường bao gồm:
- Chiết khấu thương mại: là số tiền mà doanh nghiệp đã thanh toán hoặc đã giảm trừ cho người mua do việc người mua hàng đã mua hàng với khối lượng lớn theo thoả thuận về chiết khấu thương mại ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán.
- Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ được doanh nghiệp (bên bán) chấp thuận một cách đặc biệt trên giá đã thoả thuận trên hoá đơn vì lý do hàng bán bị kém phẩm chất, không đúng quy cách hoặc không đúng thời hạn ghi trong hợp đồng.
- Hàng bán bị trả lại: là số sản phẩm, hàng hoá doanh nghiệp đã xác định là tiêu thụ nhưng bị khách hàng bị trả lại do vi phạm các điều kiện cam kết trong hợp đồng kinh tế như: hàng kém phẩm chất, sai quy cách, chủng loại.
- Thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất khẩu là khoản thuế giảm thu tính trên doanh thu bán hàng. Khoản thuế này tính cho các đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ phải chịu, các cơ sở kinh doanh chỉ là đơn vị thu nộp thuế thay cho người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó, nhưng xét về mặt hạch toán thì đây cũng được coi là khoản giảm trừ doanh thu bán hàng.
Trong các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng, ta thấy khoản giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại trong mọi trường hợp đều tác động tiêu cực đến không chỉ kết quả bán hàng mà còn phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Các khoản này tăng lên sẽ làm doanh thu bán hàng giảm đi và kéo theo kết quả bán hàng cũng giảm, nhưng điều đáng lo hơn cả là chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang có nhiều vấn đề cần phải xem xét. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm doanh nghiệp mất dần khách hàng, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường giảm sút và điều xấu nhất có thể xảy ra là doanh nghiệp bị phá sản. Vì vậy việc quản lý tốt cac khoản giảm trừ doanh thu bán hàng là nhiệm vụ và yêu cầu bức thiết đối với không riêng gì kế toán bán hàng mà còn của các bộ phận khác như bộ phận sản xuất, bộ phận kinh doanh… trong doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng sau khi trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu sẽ còn lại doanh thu thuần.
1.2.3. Giá vốn hàng bán
Trị giá vốn hàng bán là toàn bộ các chi phí liên quan đ