Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của
Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội
dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà
nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền
lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu
hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước,
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các
cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm
1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực
lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động
thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh
của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng
đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công
lý được thực hiện trong cuộc sống.
120 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2830 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành
trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của
Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội
dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà
nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền
lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu
hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước,
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các
cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm
1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực
lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động
thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh
của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng
đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công
lý được thực hiện trong cuộc sống.
Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh
những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện thi
hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách,
vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật
của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư
luận xã hội… Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho
Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muốn tổ
chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công
tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an
toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng
chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói
riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp
của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và
một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về pháp
luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những năm
qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội.
Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám
(Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo
hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư
pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong công
cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân
sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâu và
toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự.
Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về địa
vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đặt ra
yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó
đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay.
Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phương và
hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào tạo
nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dân sự
trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để
các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả
nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp
lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những công trình liên quan
đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về đổi
mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa học
và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai
đoạn mới" mã số đề tài: 2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài; Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” của
Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sỹ Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới tổ chức thi hành án
dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sỹ Luật học tại Trường Đại
học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số vấn
đề về tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà
Nội của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân
sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lê Anh Tuấn,
với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý
luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”;
Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Hoàng
Thế Anh, với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiến sỹ
luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”.
Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam”.
Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định.
Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ của
Chấp hành viên, trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong
quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy
định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở
cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
đến năm 2020.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định ở
Việt Nam từ năm 2004 đến nay.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận văn tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong hoạt động thi hành án dân sự; Những quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên và thực trạng thực hiện những quy định đó trong hoạt động thi hành án dân sự tại
Việt Nam từ năm 2004 đến nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung, địa
vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp
hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý
của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư
pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
luật học so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành
án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm
tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra
những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
Chấp hành viên trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2004
đến nay, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ
thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật cũng
như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của mình trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác do pháp luật quy định.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu
hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự v.v… tại các cơ sở đào
tạo Luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước là một
trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi
tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyền và
theo trình tự tố tụng. Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, họ có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của Tòa
án là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (cá
nhân, tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung vụ việc
và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và nghĩa vụ này
muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Thực chất, việc thi hành án
là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài
phán khác được thực hiện trên thực tế. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được những
người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án và người phải thi hành
án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự nguyện, bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp
luật thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra
thi hành đó là: Bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án và Quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản
án, quyết định) quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luật thi
hành án dân sự còn quy định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa
ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án,
quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc
kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người
được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc
và Quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là văn
bản pháp lý nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự,
kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản pháp lý do các tổ
chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc dân sự hoặc kinh doanh
thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm hại. Những phán
quyết của Tòa án cũng như những phán quyết của các cơ quan tài phán muốn được thực thi
trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án dân sự.
Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi pháp lý nhằm thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan khác do Nhà nước
quy định.
Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [41, tr.705]. Công tác thi hành án
dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ quan
thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ
việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ yếu là những
quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự; xuất phát từ nguyên tắc tôn
trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự.
Người được thi hành án giữ vai trò chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết định
đưa ra những yêu cầu thi hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi hành án,
quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án...
Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và người phải
thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy nhiên việc thỏa thuận này
phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa thuận về các vấn đề như: thời gian, địa điểm,
phương thức thi hành án... Cơ quan thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói riêng
có trách nhiệm theo dõi, giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các bên
đương sự. Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án
hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện theo trình tự,
thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao tính linh hoạt. Tùy từng
trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được mục
đích và hiệu quả cao nhất.
Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi hành các bản án, quyết
định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức thi hành các
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan
nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự hiện
nay được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được ti