Mua bán phụnữ, trẻem là một vấn nạn có tính toàn cầu và đang có xu
hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thếgiới, mà Việt Nam không
phải là ngoại lệ. Mặc dù hiện tượng mua bán phụnữ, trẻem mới xuất hiện ở
Việt Nam khoảng hơn mười năm trởlại đây, song tính đa dạng, phức tạp cũng
nhưhậu quảmà loại hành vi này gây ra cho các nạn nhân, gia đình nạn nhân
và toàn xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi mua bán phụnữ, trẻem xâm
hại đến các quyền cơbản của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp
Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong mười năm qua có hàng chục nghìn
phụnữ, trẻem bịmua bán ra nước ngoài. Cuộc đấu tranh phòng, chống mua
bán phụnữ, trẻem ởViệt Nam đã đạt được một sốkết quảnhất định, đã xử
lý hình sựhàng trăm vụvới hàng nghìn đối tượng phạm tội. Tuy nhiên, tình
hình mua bán phụnữ, trẻem hiện nay có xu hướng gia tăng năm sau cao hơn
năm trước và diễn biến rất phức tạp. Loại tội phạm này không chỉxảy ra ở
các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, mà đã xuất hiện ởhầu
hết các tỉnh và thành phốtrong cảnước. Tính chất và thủ đoạn hoạt động của
loại hành vi này ngày càng tinh vi, xảo quyệt và đang có xu hướng xuyên
quốc gia.
Hành vi phạm tội mua bán phụnữ, trẻem diễn ra rất đa dạng có thểlà
thông qua các loại hình dịch vụnhư: môi giới kết hôn; cho, nhận con nuôi,
xuất khẩu lao động, du lịch; hoặc cưỡng bức, bắt cóc.
Nhận thức sâu sắc vềtính chất, mức độnguy hiểm của hành vi mua
bán phụnữ, trẻem cũng nhưnhững diễn biến phức tạp của loại hành vi này,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủtrương, chính sách, văn bản quy
2
phạm pháp luật tạo ra cơsởpháp lý thuận lợi cho việc phòng, chống mua bán
phụnữ, trẻem. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay hệ
thống văn bản đó đã bộc lộnhiều bất cập, thiếu sót, dẫn đến hạn chếhiệu quả
của công tác phòng, chống loại hành vi này. Đểnâng cao hiệu quảcông tác
phòng, chống mua bán phụnữ, trẻem nói chung, tội phạm mua bán phụnữvà
trẻem nói riêng, vấn đềcó ý nghĩa quan trọng là cần phải tổng kết thực tiễn,
tổchức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này; qua đó đềxuất các giải pháp
góp phần hoàn thiện pháp luật vềphòng, chống mua bán phụnữ, trẻem trong
tình hình hiện nay. Nhận thức nhưvậy, chúng tôi đã chọn vấn đề: "Hoàn
thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụnữ, trẻem ởViệt Nam hiện
nay" làm đềtài luận văn thạc sĩluật.
111 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2609 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Mua bán phụ nữ, trẻ em là một vấn nạn có tính toàn cầu và đang có xu
hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam không
phải là ngoại lệ. Mặc dù hiện tượng mua bán phụ nữ, trẻ em mới xuất hiện ở
Việt Nam khoảng hơn mười năm trở lại đây, song tính đa dạng, phức tạp cũng
như hậu quả mà loại hành vi này gây ra cho các nạn nhân, gia đình nạn nhân
và toàn xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em xâm
hại đến các quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp
Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong mười năm qua có hàng chục nghìn
phụ nữ, trẻ em bị mua bán ra nước ngoài. Cuộc đấu tranh phòng, chống mua
bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định, đã xử
lý hình sự hàng trăm vụ với hàng nghìn đối tượng phạm tội. Tuy nhiên, tình
hình mua bán phụ nữ, trẻ em hiện nay có xu hướng gia tăng năm sau cao hơn
năm trước và diễn biến rất phức tạp. Loại tội phạm này không chỉ xảy ra ở
các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, mà đã xuất hiện ở hầu
hết các tỉnh và thành phố trong cả nước. Tính chất và thủ đoạn hoạt động của
loại hành vi này ngày càng tinh vi, xảo quyệt và đang có xu hướng xuyên
quốc gia.
Hành vi phạm tội mua bán phụ nữ, trẻ em diễn ra rất đa dạng có thể là
thông qua các loại hình dịch vụ như: môi giới kết hôn; cho, nhận con nuôi,
xuất khẩu lao động, du lịch; hoặc cưỡng bức, bắt cóc...
Nhận thức sâu sắc về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mua
bán phụ nữ, trẻ em cũng như những diễn biến phức tạp của loại hành vi này,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy
2
phạm pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc phòng, chống mua bán
phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay hệ
thống văn bản đó đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, dẫn đến hạn chế hiệu quả
của công tác phòng, chống loại hành vi này. Để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói chung, tội phạm mua bán phụ nữ và
trẻ em nói riêng, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là cần phải tổng kết thực tiễn,
tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này; qua đó đề xuất các giải pháp
góp phần hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em trong
tình hình hiện nay. Nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề: "Hoàn
thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện
nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em được một số nhà lý luận
và cán bộ hoạt động thực tiễn quan tâm, nên cho đến nay đã có một số công
trình nghiên cứu, trong đó phải kể đến các công trình sau:
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: "Chương trình hành động về phòng
chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002)", Nhà xuất bản
Phụ nữ, Hà Nội, 1999;
- Vũ Ngọc Bình: "Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em", Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2002;
- Bộ Tư pháp: "Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam
trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán
người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004;
- Đỗ Thị Thơm: "Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam
hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2003;
3
- Nguyễn Quang Dũng: "Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên
giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của bộ đội biên phòng", Tạp chí Công
an nhân dân, số 7, 2003;
- Phạm văn Hùng: "Quán triệt chương trình hành động phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004-2010", Tạp chí Công an nhân
dân, số 10, 2004;
- Đặng Xuân Khang: "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới
Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ
Công an, 2004...
Bên cạnh đó, còn có một số luận văn cao học luật và các bài nghiên
cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Công an nhân dân, Cảnh sát nhân
dân, Kiểm sát...đề cập đến phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ trẻ em.
Các công trình, bài viết nêu trên bước đầu đã khái quát tình hình mua
bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam, đồng thời đề cập đến cơ sở pháp luật về công
tác phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, qua đó nêu ra những bất
cập, thiếu sót và đề xuất các giải pháp hoàn thiện những văn bản pháp luật
này. Do cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên các công
trình đó mới dừng lại ở các góc độ nhất định và vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về pháp luật phòng, chống mua
bán phụ nữ, trẻ em và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cũng như pháp luật phòng,
chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
- Phạm vi nghiên cứu: Mua bán phụ nữ, trẻ em là vấn đề rất phức tạp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: y tế, giáo dục, lao động,
phúc lợi xã hội và tư pháp. Việc phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em có liên
4
quan đến đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật, nhiều lĩnh vực pháp luật
khác nhau. Do đó, trong khuôn khổ của một luận văn cao học, chúng tôi chủ
yếu tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến
công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em và từ đó nêu ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoàn
thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em góp phần cung cấp
cơ sở lý luận, thực tiễn để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này và nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống, tiến đến đẩy lùi loại tệ nạn này.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật
về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ
em ở Việt Nam.
- Tổng kết lý luận và đánh giá thực tiễn, dự báo tình hình, luận văn đề
xuất phương hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán
phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em; đồng thời, trong quá
5
trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các phương pháp
nghiên cứu, cụ thể như: phân tích, tổng hợp, tư vấn, thống kê, so sánh, đối chiếu
luật, tổng kết thực tiễn...
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và tương
đối toàn diện về hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em,
nên kết quả nghiên cứu của luận văn có những nội dung được coi là mới, có
đóng góp cho khoa học chuyên ngành, cụ thể là:
- Xây dựng khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em theo pháp luật Việt
Nam và theo tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 và các nghị định thư bổ sung công ước.
- Xác định các tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em.
- Phân tích, đánh giá có hệ thống pháp luật thực định liên quan trực
tiếp đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
- Đề xuất một số giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật phòng,
chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Với kết quả nghiên cứu như đã nêu ở trên nên luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về
chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật ở các cơ sở đào tạo về
pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HÀNH VI MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM VÀ
PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
1.1.1 . Khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em và các yếu tố cấu thành
hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em
Mua bán người nói chung trong đó có mua bán phụ nữ, trẻ em là một
hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ khi xã hội loài người bước vào giai đoạn
phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Ban đầu mua bán người là
việc mua bán nô lệ trong các cuộc chiến tranh, sau đó là các cuộc trao đổi phụ
nữ vì lợi ích chính trị, kinh tế... giữa các quốc gia thời phong kiến. Cho đến
nay tệ nạn mua bán người mà chủ yếu là mua bán phụ nữ, trẻ em vẫn tồn tại
và còn có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, với
các mục đích phi nhân đạo như: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, kết hôn
trái ý muốn, lấy đi một bộ phận của cơ thể...
Mặc dù vậy, cho đến nay trong khoa học, cũng như trong thực tiễn
vẫn chưa có sự thống nhất khái niệm về buôn bán người.
Theo Công ước của Liên hợp quốc năm 1949 thì: "buôn bán người" là
hành vi mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm.Như vậy "buôn bán người"
không bao gồm hành vi mua bán đàn ông và trẻ em.
- Báo cáo đặc biệt của Liên hợp quốc về bạo hành ngược đãi phụ nữ
có nêu: Mua bán người là hành vi tuyển dụng, vận chuyển, mua bán, chuyển
giao, che giấu hoặc tiếp nhận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực, bắt
7
cóc, lừa dối, ép buộc hoặc lạm dụng quyền lực vì mục đích bóc lột, cưỡng bức
lao động (kể cả lao động để trừ nợ) hay bắt kẻ hầu hạ.
- Vào năm 1962, Tổ chức quốc tế về nhân quyền (IHRLG), tổ chức
đấu tranh chống mua bán phụ nữ (STV) và liên minh toàn cầu chống mua bán
phụ nữ và một số tổ chức khác đã thống nhất đưa ra một định nghĩa về mua
bán người như sau: Tất cả mọi hành động và mưu toan hành động có liên
quan đến việc tuyển dụng, vận chuyển trong phạm vi quốc gia và xuyên biên
giới, mua bán, chuyển giao, tiếp nhận che giấu con người bằng cách lừa dối,
ép buộc (kể cả sử dụng, hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lạm dụng thẩm quyền)
hoặc bắt buộc trừ nợ vì mục đích xếp đặt hoặc lưu giữ người đó, cho dù trả
tiền hay không, trong việc phục vụ (việc nhà, tình dục hoặc sinh sản), trong
lao động bắt buộc hoặc lao động trừ nợ, hoặc trong các điều kiện tương tự
như nô lệ, trong một cộng đồng, khác cộng đồng mà người đó đã sống tại thời
điểm trước khi bị lừa gạt, ép buộc hay gán nợ.
- Năm 1972, Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) và Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF) đưa ra khái niệm sau: Buôn bán người là hành vi tuyển dụng,
chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người bằng cách đe dọa dùng vũ lực, bắt
cóc, lừa dối, ép buộc, kể cả lạm dụng thẩm quyền, hay trừ nợ vì mục đích bố
trí hay bắt buộc người đó dù có được trả tiền hay không vào tình trạng lao
động cưỡng bức hoặc phải làm công việc tương tự như nô lệ trong một cộng
đồng khác mà người đó đã sống.
- Năm 1958, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm: Buôn
bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp
cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc những hình thức khác như
ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng
dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự
đồng ý của một người mà người đó đang cóc quyền kiểm soát một người
khác, nhằm mục đích bóc lột.Việc bóc lột bao gồm tối thiểu: bóc lột làm nghề
8
mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ
bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như nô lệ, khổ sai hay
cắt đi những bộ phận cơ thể.
- Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng phạt việc buôn bán
người đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (sau đây gọi tắt là Nghị định thư về buôn bán
người) bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm xuyên quốc gia năm
2000 đã đưa ra định nghĩa về "buôn bán người" được cộng đồng quốc tế thừa
nhận (117 nước ký, trong đó 46 nước phê chuẩn): Buôn bán người là hoạt
động tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người,
bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, ép buộc bắt cóc, lừa gạt, lừa dối, lạm
dụng quyền lực hoặc vị thế không được bảo vệ, hoặc trả tiền, hoặc lợi nhuận
cho người có quyền kiểm soát đối với nạn nhân, nhằm mục đích bóc lột, bao
gồm bóc lột thông qua hoạt động mại dâm, bóc lột tình dục lao động cưỡng
bức, nô lệ hoặc hành vi tương tự như nô lệ và bị lấy đi các cơ quan nội tạng.
Sự đồng ý của nạn nhân không liên quan gì tới các yếu tố cấu thành
đối với loại tội phạm này khi phương tiện đạt được là bất hợp pháp, nạn nhân
vẫn được luật hình sự bảo vệ (Điều 3b Nghị định thư và Điều 10b Công ước).
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm "buôn bán người" ít được đề cập
do trên thực tế chưa thấy có vụ việc nào về buôn bán đàn ông. Pháp luật Việt
Nam chỉ quy định hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em. Dưới góc độ luật hình sự,
chúng ta có thể thấy tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em được quy định tại Điều 119
và Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên hai điều luật này không đưa
ra định nghĩa về các hành vi này. Cho đến nay, mới có một văn bản đề cập
đến định nghĩa về mua bán trẻ em, đó là Nghị quyết số 04/HĐTP ngày
29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985.
Theo Nghị quyết này thì: "Mua bán trẻ em" được hiểu là "việc mua hoặc bán
trẻ em vì mục đích tự lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính
9
người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm
cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em. Tương tự như vậy khái niệm "mua bán
phụ nữ", được hiểu là việc mua hoặc bán phụ nữ vì mục đích tự lợi.
Như vậy, "mua bán phụ nữ, trẻ em" theo pháp luật Việt Nam được
hiểu chung là việc chuyển giao phụ nữ, trẻ em từ một người hoặc một nhóm
người, sang một người hoặc một nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích
vật chất khác.
Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ "mua bán phụ nữ, trẻ em", thì thuật
ngữ "buôn bán phụ nữ, trẻ em", cũng được một số văn bản qui phạm pháp luật
sử dụng, đó là: khoản 2 Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui
định: "Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán
phụ nữ..." [36]; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số
điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài: "Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết
hôn hoặc lợi dụng việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ..." (Điều 21),
"Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em..." (Điều 35) [18]; khoản 2 Điều 24
Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định: "Người nào môi giới mại dâm,
chứa mại dâm, cưỡng bức mại dâm, tổ chức mại dâm, mua bán phụ nữ, trẻ em
để phục vụ hoạt động mại dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự" [49].
Như vậy, tổng hợp các quan niệm của pháp luật quốc tế về buôn bán
người nói chung, cũng như các qui phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng
chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi xin nêu khái
niệm mua bán phụ nữ, trẻ em như sau: mua bán phụ nữ, trẻ em là hành vi của
một người hoặc một nhóm người vì tư lợi, đã lừa dối, ép buộc, đe dọa dùng
vũ lực hoặc dùng vũ lực, nhằm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và giao
nhận phụ nữ, trẻ em cho một người hoặc một nhóm người khác để được nhận
tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
10
1.1.1.2. Các đặc điểm của hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em
Như chúng ta đã biết, hành vi là những phản ứng, cách ứng xử được
biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất
định. Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của
chủ thể ý thức được và chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con người
trong trạng thái vô thức không thể coi là hành vi. Hành vi phải được biểu đạt ra
bên ngoài bằng những phương thức khác nhau (hành động hoặc không hành
động), nghĩa là nó phải thể hiện trong thế giới khách quan thông qua những
thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể, mà các chủ thể khác có
thể nhận biết được điều đó. Do hành vi của các chủ thể được bộc lộ ra thế giới
khách quan nên nó mang tính xã hội (có ý nghĩa về mặt xã hội, có thể ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến xã hội). Vì vậy, cần phải có sự giám sát và
điều chỉnh từ phía xã hội đối với hành vi của con người. Tùy theo tính chất đặc
điểm và những lĩnh vực thể hiện của hành vi con người mà xã hội đặt ra những
tiêu chuẩn, những công cụ điều chỉnh chúng khác nhau. Những hành vi nào của
con người được pháp luật quy định, điều chỉnh thì được xem là hành vi pháp
luật. Hành vi pháp luật nào được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của
pháp luật (chủ thể tiến hành những xử sự mà pháp luật yêu cầu như thực hiện
quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; không được làm những gì mà pháp luật
cấm; hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép) là hành vi hợp pháp. Hành
vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những
việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động vượt
quá phạm vi cho phép của pháp luật là hành vi không hợp pháp (trái pháp luật)
[45, tr. 491). Theo phân tích trên, hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" được hiểu
là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của những người
có đủ năng lực (năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thực hiện việc "mua bán
phụ nữ, trẻ em". Như vậy, hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" là hành vi bất hợp
pháp (vi phạm các điều 119, 120 Bộ luật hình sự năm 1999) và các yếu tố cấu
11
thành hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" sẽ bao gồm: một là, chủ thể thực hiện
hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" phải là người có đủ năng lực pháp luật và
năng lực hành vi; hai là, những biểu hiện trong thế giới khách quan thông qua
những thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể thực hiện hành vi
"mua bán phụ nữ, trẻ em", mà các chủ thể khác có thể nhận biết được điều đó.
Từ phân tích nêu trên, nếu so sánh các biểu hiện hành vi mua bán phụ
nữ, trẻ em (được pháp luật xác định) theo các quy định của pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam cho thấy:
- Với Nghị định thư về buôn bán người thì hoạt động mua bán phụ nữ,
trẻ em sẽ bao gồm những hành vi sau: tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao,
che giấu hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột.
- Theo những quy định của pháp luật Việt Nam thì hoạt động mua bán
phụ nữ, trẻ em chỉ là hành vi chuyển giao phụ nữ, trẻ em từ một người (nhóm
người) sang một người (nhóm người) khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật
chất khác.
1.1.2. Khái niệm, vai trò của pháp luật phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong
lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và
những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác nhau trong xã hội có giai
cấp. Pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.
Pháp luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính
tự nhiên phi giai cấp của con người như "pháp luật tự nhiên" quan niệm. Bên
cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Pháp luật là do nhà nước,
đại diện chính thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy, ở chừng mực nào đó
pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp và tầng lớp