Từkhi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cách
mạng là sựnghiệp của quần chúng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú
trọng việc tổchức, lãnh đạo và phát triển các tổchức hội. Trong sựnghiệp đổi
mới, Đảng ta khẳng định:
trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng
vềnghềnghiệp và đời sông của nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi
nhà, tương thân, tương ái. Các tổchức hội quần chúng được thành lập theo
nguyên tắc tựnguyện, tựquản và tựtrang trải vềtài chính trong khuôn khổ
pháp luật (1)
Hiện nay, các tổchức hội đã phát triển nhanh với sốlượng lớn và
được tổchức dưới nhiều hình thức đa dạng: hội, tổng hội, liên hiệp hội, hiệp
hội. Hoạt động của hội ngày càng phong phú và có hiệu quảtrên tất cảcác
lĩnh vực của đời sống xã hội như: xoá đói giảm nghèo, bảo vệtài nguyên, môi
trường, nâng cao dân trí, tham gia vào việc xã hội hoá các hoạt động y tế, văn
hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, thểdục thểthao, từthiện
nhân đạo. Nhiều hội đã và đang tham gia cung cấp dịch vụcông do Nhà nước
chuyển giao, tham gia tưvấn, phản biện các đềán, chính sách, góp phần nâng
cao vai trò quản lý và hoàn thiện vềthểchế, chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách pháp luật và áp dụng pháp luật
vềHội trong thời gian qua đã bộc lộnhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa phù
hợp với tình hình phát triển của các tổchức hội. Một sốhội hoạt động còn
mang tính hình thức, nặng tưtưởng bao cấp, ỷlại và hành chính hoá, chưa
phản ánh được nguyện vọng và bảo vệquyền, lợi ích hợp pháp của hội viên.
Hiệu lực, hiệu quảcủa công tác quản lý nhà nước vềhội còn hạn chếdo các
biện pháp, chếtài chưa đủmạnh, nhiều lĩnh vực quản lý, nhất là những lĩnh
vực có yếu tốnước ngoài còn chưa được quy định. Nhiều vấn đềlý luận vềtổ
chức hội trong điều kiện đặc thù ởnước ta trong mối quan hệvới vịtrí, vai trò
2
của hội trong xu thếtoàn cầu hoá và bối cảnh hội nhập quốc tếchưa được làm
sáng tỏ.
Bên cạnh đó, sựphát triển mạnh mẽcủa nền kinh tếthịtrường định
hướng XHCN, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mởrộng dân
chủvà tăng cường xã hội hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế ởnước ta hiện
nay cũng chính là đòi hỏi cần hoàn thiện pháp luật vềhội nhằm tạo hành lang
pháp lý giúp các tổchức hội có điều kiện phát triển thuận lợi, đồng thời nâng
cao hiệu lực, hiệu quảcủa công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Đểkhắc phục những bất cập, hạn chếcủa văn bản pháp luật hiện hành
vềhội, đồng thời thểchếhoá đầy đủ đường lối, chủtrương của Đảng và Nhà
nước, đáp ứng yêu cầu phát triển hội trong bối cảnh hội nhập quốc tếthì việc
hoàn thiện pháp luật vê hội là một yêu cầu khách quan và cấp thiết.
Chính vì thế, tôi chọn vấn đề “Hoàn thiện pháp luật vềhội trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ởViệt Nam hiện nay"làm đềtài luận văn thạc sỹluật
học của mình.
120 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2272 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú
trọng việc tổ chức, lãnh đạo và phát triển các tổ chức hội. Trong sự nghiệp đổi
mới, Đảng ta khẳng định:
trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng
về nghề nghiệp và đời sông của nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi
nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo
nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ
pháp luật (1)
Hiện nay, các tổ chức hội đã phát triển nhanh với số lượng lớn và
được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng: hội, tổng hội, liên hiệp hội, hiệp
hội... Hoạt động của hội ngày càng phong phú và có hiệu quả trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội như: xoá đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, nâng cao dân trí, tham gia vào việc xã hội hoá các hoạt động y tế, văn
hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, thể dục thể thao, từ thiện
nhân đạo. Nhiều hội đã và đang tham gia cung cấp dịch vụ công do Nhà nước
chuyển giao, tham gia tư vấn, phản biện các đề án, chính sách, góp phần nâng
cao vai trò quản lý và hoàn thiện về thể chế, chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách pháp luật và áp dụng pháp luật
về Hội trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa phù
hợp với tình hình phát triển của các tổ chức hội. Một số hội hoạt động còn
mang tính hình thức, nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại và hành chính hoá, chưa
phản ánh được nguyện vọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên.
Hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về hội còn hạn chế do các
biện pháp, chế tài chưa đủ mạnh, nhiều lĩnh vực quản lý, nhất là những lĩnh
vực có yếu tố nước ngoài còn chưa được quy định. Nhiều vấn đề lý luận về tổ
chức hội trong điều kiện đặc thù ở nước ta trong mối quan hệ với vị trí, vai trò
2
của hội trong xu thế toàn cầu hoá và bối cảnh hội nhập quốc tế chưa được làm
sáng tỏ.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân
chủ và tăng cường xã hội hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện
nay cũng chính là đòi hỏi cần hoàn thiện pháp luật về hội nhằm tạo hành lang
pháp lý giúp các tổ chức hội có điều kiện phát triển thuận lợi, đồng thời nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Để khắc phục những bất cập, hạn chế của văn bản pháp luật hiện hành
về hội, đồng thời thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước, đáp ứng yêu cầu phát triển hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì việc
hoàn thiện pháp luật vê hội là một yêu cầu khách quan và cấp thiết.
Chính vì thế, tôi chọn vấn đề “Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến pháp luật về hội nói chung, tổ chức và hoạt động của hội nói riêng,
như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Thực trạng và giải pháp quán lý
nhà nước với các tổ chức phi chính phủ " do Vụ các tổ chức phi chính phủ -
Ban tổ chức cán.bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) chủ trì thực hiện năm 2000;
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Nghiên cứu hoàn thiện công tác quản
lý nhà nước của Bộ Nội vụ đối với hội và tổ chức phi chính phủ trong thời kỳ
đổi mới” do Vụ Tổ chức phi chính phủ - Bộ Nội vụ thực hiện, hoàn thành
tháng 10/2004; Báo cáo tổng hợp của dự án “Điều tra thực trạng về hội và tổ
chức phi chính phủ ở nước ta hiện nay” do Viện Nghiên cứu khoa học Nhà
nước thuộc Bộ Nội vụ chủ trì thực hiện, hoàn thành tháng 3/2006; Báo cáo
“Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam” do dự án CIVICUS CSI-
SAT (công cụ đánh giá nhanh chỉ số xã hội dân sự) thực hiện, hoàn thành
tháng 01/2006; Tài liệu hướng dẫn về Luật liên quan đến các tổ chức dân sự
của Viện Xã hội mở, NewYork, do Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam dịch;
3
Tuyển tập “Ý kiến đóng góp về quyền lập hội” do Liên hiệp các hội khoa học
kỹ thuật Việt Nam xuất bản tháng 5/2006.
Tác giả Thang Văn Phúc (chủ biên), Nguyễn Xuân Hải, Nguyễn Ngọc
Lâm, Nguyễn Quốc Tuấn đã xuất bản cuốn sách “Vai trò của các hội trong
đổi mới và phát triển đất nước" (Nhà xuất bản Chinh trị quốc gia, Hà Nội ,
năm 2002), trong đó tập trung phân tích các vấn đề: nhận thức chung về hội
và đặc điểm của hội ở Việt Nam, các hội ở Việt Nam trong đôi mới và phát
triển đất nước, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước
với các hội quân chúng.
Thạc sỹ Nguyễn thị Hồng, giảng viên Trường chính trị tỉnh Phú Thọ
có luận án tốt nghiệp khoá 9 Học viện Chính trị QG HCM về “Cơ sở lý luận
xây dưng pháp luật về tổ chức và hoạt động cua hội Ở miệt Nam hiện nay”.
Tác giả đã phân tích khái niệm, đặc điểm của hội; vị trí, vai trò của hội trong
đời sống xã hội và phát triển đất nước; thực trạng pháp luật về tô chức và hoạt
động của hội Ở Việt Nam hiện nay để từ đó kiến nghị một số giải pháp cơ bản
xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động của hội ở Việt Nam hiện nay.
Bện cạnh đó, còn có Kỷ yếu hội thảo "Khung pháp lý tổ chức, hoạt
động và quản lý tổ chức phi chính phủ Việt nam trong tình hình hiện nay” do
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Viện KAS tổ chức tháng 12-2000; Tài liệu
tập huấn về “Tổ chức, quản lý hội và tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam” do
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ tổ chức tháng 11-2000 tập hợp các bài viết
của các chuyên gia của Bộ Công an và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ; Kỷ
yếu hội thảo “Trao đổi kinh nghiệm xây dựng pháp luật về các tổ chức xã
hội” do Ban Công tác lập pháp của Quốc hội tổ chức tháng 8/2004 tại Hạ
Long; Kỷ yếu hội thảo “Pháp luật về hội” của Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ
chức tháng 11/2004; . Các bài viết và tham luận tại các cuộc hội thảo phân
tích Ở nhiều khía cạnh khác nhau song đều có điểm thống nhất chung là sớm
ban hành Luật về hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Các công trình nghiên cứu nêu trên nghiên cứu tổ chức và hoạt động
của hội và kiến nghị nhiều giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước về hội dưới nhiều góc độ, trong đó có một giải pháp quan
4
trọng là xây dựng Luật về hội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chưa
tập trung nghiên cứu sâu vào vấn đề hoàn thiện pháp luật về hội gắn với
những so sánh với pháp luật quốc tế với vai trò là một nội dung nghiên cứu
chính. Vì vậy, đề tài luận văn thạc sỹ luật học "Hoàn thiện pháp luật về hội
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay" sẽ góp phần giải quyết
được vấn đề nêu trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các chủ trương, chính sách và
văn bản quy phạm pháp luật về hội.
- Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tốt nghiệp cao học, luận văn tập
trung nghiên cứu sâu về những vấn đề lý luận cơ bản của việc hoàn thiện pháp
luật về hội nhằm điều chỉnh, định hướng tổ chức và hoạt động của hội trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thời gian
nghiên cứu từ thời kỳ sau cách mạng tháng 8 đến nay và kinh nghiệm xây
dựng pháp luật về tổ chức xã hội của một số tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế
giới, Trung tâm quốc tế về luật phi lợi nhuận) và một số nước trên thế giới
(Pháp, Đức, Trung Quốc...)
4. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích của Luận văn là tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về hội đáp ứng việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, đồng thời phù
hợp với đặc thù chính trị-xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của hội, phân tích tính đặc thù, vị trí,
vai trò của hội ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Phân tích thực trạng pháp luật về hội ở nước ta từ giai đoạn sau cách
mạng tháng 8 đến nay, tập trung vào thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất, luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về hội đáp ửng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và phù hợp với đặc thù
chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về phát triển hội; những học thuyết, tinh hoa tư
tưởng của nhân loại về tổ chức và hoạt động của hội. Luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp của triệt học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp của luật học so sánh; phương pháp của lý thuyết hệ
thống.
6. Nhũng điểm mới của Luận văn
Luận văn phân tích có hệ thống về quá trình phát triển của pháp luật
về hội ở nước ta; đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về hội trong mối
quan hệ so sánh với pháp luật về các tổ chức xã hội của một số nước trên thế
giới và tổ chức quốc tế để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hội
theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước ta, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của các tổ chức hội trên cơ sở phù hợp với đặc thù về chính trị - xã hội
của nước ta và pháp luật quốc tế.
7. Ý nghĩa của Luận văn:
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm của hội ở
Việt Nam hiện nay; bổ sung những quan điểm, định hướng trong tổ chức và
hoạt động cũng như quản lý nhà nước về hội, nhất là trong điều kiện có nhiều
ý kiến, quan điểm không thống nhất về vấn đề này.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh mở rộng dân
chủ XHCN, tăng cường xã hội hoá và chủ động hội nhập quốc tế.
8. Kết cấu của Luận văn:
Luận văn ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu
tham khảo, phần nội dung gồm 3 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỘI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mặc dù Sắc lệnh số 52/SL ngày 22-4-1946 của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà và Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30-7-2003
của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sau đây gọi là
Nghị định 88) đã đưa ra khái niệm về hội, song để đáp ứng nhận thức, tư duy
mới về “hội” trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng dân chủ xã hội cũng
như đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước trong tình hình mới, thì
cần một cách tiếp cận toàn diện hơn, đầy đủ hơn về khái niệm “hội”.
Đi tìm một khái niệm mới về “hội”, trong thời gian qua, cùng với việc
xây dựng dự thảo Luật về hội, các học giả, các chuyên gia pháp luật và cán bộ
làm công tác hội đã tranh luận sôi nổi ở nhiều diễn đàn, đưa ra nhiều quan
điểm trái chiều với những cách thức tiếp cận đa diện. Cho đến nay, ở Việt
Nam, xét ở khía cạnh học thuật và pháp lý, chưa có khái niệm “Hội” theo một
cách nhìn toàn diện, thống nhất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và các nhà
quản lý đều đồng tình rằng, hội là một trong những thành tố của Xã hội dân sự.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu khái niệm về hội cũng như các vấn đề
liên quan đế hội cần phải đặt trong tổng thể của một tập hợp các chủ thể xã
hội, phi nhà nước dưới khái niệm chung là Xã hội dân sự; đồng thời cần xem
xét quan hệ của “hội” với tư cách là một thành tố trong xã hội dân sự với các
thành tố khác.
1.1. XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ - QUAN
NIỆM CỦA THẾ GIỚI VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm xã hội dân sự và mối quan hệ với nhà nước,
thị trường trong cấu trúc xã hội
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xã hội dân sự
Theo ngôn ngữ tiếng Việt, có 2 cụm từ được sử dụng cho Xã hội dân
sự, đó là: xã hội công dân và xã hội dân sự. Tuy nhiên, tương tự như các nước
7
khác, hiện nay, ở Việt Nam, khuynh hướng sử dụng cụm từ Xã hội dân sự phổ
biến hơn do được dịch đúng theo nghĩa đen cụm từ tiếng Anh Civil Society.
Về khái niệm xã hội dân sự, Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa:
Xã hội công dân là hệ thống các tổ chức của công dân, các cộng đồng
công dân và các quan hệ giữa chúng, nhằm hiện thực hoá các cá nhân và nhân
cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng
đồng. Đồng thời thông qua các cộng đồng, xã hội công dân phối hợp hoạt
động với nhà nước, bảo đảm cho quan hệ giữa nhà nước và xã hội cân bằng,
ổn định, tạo các điều kiện tối ưu cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.(2)
Cũng theo giáo trình này, “các thể chế xã hội công dân độc lập tương
đối, không phụ thuộc, không phải là các tổ chức nhà nước, cũng không phải là
các tổ chức (cơ sở) sản xuất kinh doanh”(2)
Trung tâm xã hội dân sự của Trường kinh tế Luân Đôn đưa ra định
nghĩa:
Xã hội dân sự được hiểu là khu vực của hoạt động tập thể, tự nguyện
nhằm chia sẻ những mối quan tâm, mục đích và giá trị chung. Về lý thuyết,
hình thức tổ chức của xã hội dân sự là sự khác biệt với nhà nước, gia đình và
thị trường; trong khi trên thực tiễn, ranh giới giữa nhà nước, xã hội dân sự, gia
đình và thị trường thường là rất phức tạp và mờ nhạt. Xã hội dân sự nhìn
chung bao gồm sự đa dạng về không gian, nhân sự và dạng thức tổ chức;
đồng thời, tồn tại sự linh hoạt trong những thoả thuận về hình thức, vấn đề tự
quản và quyền hạn. Xã hội dân sự thường được biết tới thông qua các tổ chức,
như các tổ chức từ thiện có đăng ký, các tổ chức phi chính phủ phát triển, các
nhóm cộng đồng, các tổ chức phụ nữ, các tổ chức tín ngưỡng, các hội nghề
nghiệp, các tổ chức công đoàn, các nhóm tự giúp đỡ, các phong trào xã hội,
các hiệp hội kinh tế, các nhóm tư vấn và liên hiệp.(3)
Ngân hàng thế giới dùng thuật ngữ Xã hội dân sự như sau:
Xã hội dân chủ để chỉ lực lượng đông đảo các tổ chức phi lợi nhuận và
phi chính phủ đang hiện diện trong đời sống công chúng, biểu hiện những lợi
8
ích và giá trị của các thành viên của tổ chức mình hoặc các lợi ích khác, dựa
trên sự quan tâm về dân tộc, văn hoá, chính trị, khoa học, tôn giáo hoặc từ
thiện. Các tổ chức xã hội dân sự, do đó, được hiểu là bao gồm các nhóm cộng
đồng, các tổ chức phi chính phủ, các liên đoàn lao động, các nhóm bản địa, tổ
chức từ thiện, các tổ chức tín ngưỡng, các hiệp hội nghề nghiệp và các quỹ. (4)
Tổ chức phi chính phủ quốc tế CIVICUS (Liên minh Thế giới về sự
Tham gia của người dân) định nghĩa xã hội dân sự là “môi trường bên ngoài
Gia đình, Nhà nước và Thị trường, là nơi quần chúng liên hiệp với nhau để
phát triển những quyền lợi chung”(5)
Tuy nhiên, xét về mục đích của các chủ thể tham gia các hoạt động
trong xã hội dân sự, TS Hoàng Ngọc Giao cho rằng:
Trong phạm vi không gian này, không chỉ có các chủ thể dân sự thuần
tuý là những liên kết chính thức, không chính thức của những cá nhân, tổ
chức xã hội với những mục đích tương thân, tương ái, hoặc chia sẻ sở thích,
hoặc đáp ứng các mối quan tâm đời thường, dân sự. Trong không gian quan
hệ này, còn có thể có những sự liên kết của những cá nhân có cùng tín
ngưỡng, hoặc có cùng niềm tin và/hoặc mối quan tâm tới quyền lực Nhà
nước. Nói cách khác, Xã hội dân sự, hiểu theo nghĩa rộng, sẽ bao hàm cả
những tổ chức dân sự ‘đặc biệt’ – đó là các tổ chức tôn giáo, và các đảng
chính trị. (6)
Bên cạnh việc xem xét Xã hội dân sự trên phương diện một khu vực,
một môi trường xã hội được thiết kế và vận hành không có yếu tố nhà nước,
khái niệm Xã hội dân sự còn được được hiểu theo phương diện với ý nghĩa là
xã hội văn minh. PGS.TS Nguyễn Như Phát cho rằng:
Tiếp cận cấp độ này cho ta thấy, không phải tất cả những gì nằm ngoài
nhà nước đều là văn minh và ngược lại, tất cả những gì thuộc khu vực nhà
nước là không hay có văn minh. Khi tiếp cận theo cách này, Dieter Rucht
muốn khẳng định xã hội dân sự là một xã hội văn minh và điều quan trọng,
không phải mọi yếu tố ngoài nhà nước đều được nhìn nhận như những thành
tố của xã hội dân sự. Những thiết chế mafia, những tổ chức khủng bố quốc
9
tế…chắc chắn không nằm trong cơ cấu của bất kỳ quốc gia nào, song đó
không phải là những yếu tố của xã hội dân sự. (7)
Qua những khái niệm trên, có thể thấy rằng, xã hội dân sự khá đa dạng
về bản chất và các thành tố của chính nó, dựa trên sự khác nhau về kiểu khái
niệm, cách tiếp cận, nguồn gốc lịch sử và bối cảnh quốc gia. Tuy nhiên,
những khái niệm này đều chỉ ra rằng, Xã hội dân sự là một không gian quan
hệ rộng rãi, bên ngoài Gia đình, Nhà nước và Thị trường. Như vậy, có thể
hiểu xã hội dân sự là xã hội của những người dân với những giao dịch, những
liên kết, hay các mối quan hệ tương tác ngoài Gia đình, Nhà nước và Thị
trường, nhằm đáp ứng những sở thích, sự quan tâm, lợi ích của các thành
viên. Tổ chức xã hội dân sự bao gồn nhiều loại hình tổ chức khác nhau, song
không bao gồm các tổ chức mafia, khủng bố quốc tế và các tổ chức tội phạm.
Một cách khái quát, có thể nhận dạng xã hội dân sự theo những đặc
điểm như sau:
- Là một không gian quan hệ xã hội nằm ngoài Gia đình, Nhà nước và
Thị trường, vận hành độc lập tương đối với Nhà nước và Thị trường;
- Bản chất là một xã hội với những giá trị văn minh, hợp tác và hoà
bình. Quan hệ phát sinh trong xã hội dân sự là những mối quan hệ không
nhằm mục đích lợi nhuận, tự nguyện, mang tính chất tương hỗ dân sự, hoặc vì
lợi ích công cộng, lợi ích xã hội; các mối quan hệ này không mang tính chất
quyền lực công;
- Các hoạt động của xã hội dân sự được thể hiện thông qua nhiều hình
thức đa dạng tuỳ thuộc vào điều kiện, đặc thù của mỗi quốc gia, như: các tổ
chức từ thiện, các nhóm cộng đồng, các hiệp hội nghề nghiệp, các liên đoàn
lao động, các tổ chức tín ngưỡng… thường được gọi là các tổ chức phi chính
phủ hay các tổ chức phi lợi nhuận.
1.1.1.2. Mối quan hệ của xã hội dân sự với nhà nước và thị trường
Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của xã hội dân sự
cũng như các tổ chức xã hội càng được khẳng định và có bước phát triển
mạnh mẽ. Trải qua các giai đoạn phát triển, nhiều tổ chức xã hội dân sự được
10
coi là đối tác đầy đủ trong các diễn đàn của Liên hiệp quốc nhờ những đóng
góp đáng kể vì một thế giới hoà bình và thịnh vượng. Phát biểu tại Diễn đàn
thế giới về xã hội thông tin (The World Summit on the Information Society)
tổ chức tại Tunisia từ ngày 16-18/10/2005, ông KofiAnan, nguyên Tổng thư
ký liên hiệp quốc đã khẳng định:
Liên hiệp quốc trước kia chỉ quan hệ chính thức với các Chính phủ.
Nhưng giờ đây chúng tôi hiểu rằng hoà bình và thịnh vượng không thể đạt
được mà không có đóng góp của các đối tác, bao gồm các chính phủ, các tổ
chức quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội dân sự. Trong thế giới ngày
nay, chúng tôi tin cậy vào vai trò của từng đối tác.(8)
Tuy nhiên, không chỉ ngày nay, tầm quan trọng của xã hội dân sự mới
được khẳng định. C. Mác đã từng khái quát vai trò của xã hội dân sự là: “Xã
hội công dân đó là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử” (9).
Ý nghĩa của nhận định này là ở chỗ, giai cấp nào, lực lượng xã hội nào, đảng
chính trị nào muốn chiến thắng đều phải chiến thắng ở xã hội công dân.
Trong mỗi quốc gia, cấu trúc xã hội bao gồm chủ yếu 3 thành phần là:
Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân sự. Dưới giác độ nghiên cứu phát triển,
Nhà nước pháp quyền – kinh tế thị trường – xã hội dân sự được coi là 3 trụ
cột của sự phát triển. Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã
hội dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia.
Sơ đồ 1: Lý thuyết “tam giác phát triển”
Mô hình trên miêu tả quá trình phát triển của “tam giác phát triển”.
Theo đó, ba yếu tố nhà nước, thị trường và xã hội dân sự là ba cạnh của một
tam giác. Nguồn lực của một quốc gia do 3 yếu tố đó hợp lại bằng chu vi của
11
tam giác (tổng ba cạnh) và không đổi tại thời điểm khảo sát. Hiệu quả của sự
phối hợp giữa 3 yếu tố đó được thể hiện bằng diện