Kế hoạch kiểm toán đúng đắn là cơ sở để kiểm toán viên thu thập bằng chứng có giá 
trị góp phần đưa ra các nhận xét xác đáng về thực trạng hoạt động được kiểm toán, giữ 
vững và nâng cao uy tín cũng như hình ảnh của Công ty kiểm toán đối với khách hàng.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt 
động kiểm toán độc lập nói riêng là hoạt động mới mẻ. Trong khi đó hành lang pháp lý cho 
hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội dung, quy trình cũng như phương pháp được vận 
dụng trong các cuộc kiểm toán ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về 
số lượng và chất lượng. Do vậy, việc lập kế hoạch kiểm toán cần được coi trọng để đảm 
bảo chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán.
Với ý nghĩa đó, qua quá trình học tập tại trường và được sự hướng dẫn của Thạc sỹ 
Phan Trung Kiên, em đã quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện quá trình lập kế hoạch kiểm 
toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt 
Nam thực hiện” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề thực tập bao gồm ba phần chính như sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về quá trình lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán 
Báo cáo tài chính.
Phần II: Thực trạng lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh 
Kiểm toán Việt Nam – CPA VIETNAM thực hiện.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán 
Báo cáo tài chính do CPA VIETNAM thực hiện.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 88 trang
88 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5441 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quá trình lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Hoàn thiện quá trình lập kế hoạch kiểm 
toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo 
tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm 
toán Việt Nam thực hiện 
LỜI MỞ ĐẦU 
Kế hoạch kiểm toán đúng đắn là cơ sở để kiểm toán viên thu thập bằng chứng có giá 
trị góp phần đưa ra các nhận xét xác đáng về thực trạng hoạt động được kiểm toán, giữ 
vững và nâng cao uy tín cũng như hình ảnh của Công ty kiểm toán đối với khách hàng. 
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt 
động kiểm toán độc lập nói riêng là hoạt động mới mẻ. Trong khi đó hành lang pháp lý cho 
hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội dung, quy trình cũng như phương pháp được vận 
dụng trong các cuộc kiểm toán ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về 
số lượng và chất lượng. Do vậy, việc lập kế hoạch kiểm toán cần được coi trọng để đảm 
bảo chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán. 
Với ý nghĩa đó, qua quá trình học tập tại trường và được sự hướng dẫn của Thạc sỹ 
Phan Trung Kiên, em đã quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện quá trình lập kế hoạch kiểm 
toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt 
Nam thực hiện” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 
Chuyên đề thực tập bao gồm ba phần chính như sau: 
Phần I: Cơ sở lý luận về quá trình lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán 
Báo cáo tài chính. 
Phần II: Thực trạng lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh 
Kiểm toán Việt Nam – CPA VIETNAM thực hiện. 
 Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán 
Báo cáo tài chính do CPA VIETNAM thực hiện. 
PHẦN I 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG QUY 
TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 
1. Khái niệm và vai trò của Lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài 
chính. 
1.1. Khái niệm về kế hoạch và lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài 
chính. 
Các cách tiếp cận với khái niệm “Kế hoạch”: Theo từ điển tiếng Việt, “Kế hoạch” 
được giải nghĩa là: “ Sự sắp đặt hoặc hoạch định đường lối có hệ thống về những công việc 
dự định làm”. Trên góc độ quản lý, với các cách tiếp cận khác nhau có thể đưa ra những 
khái niệm cụ thể về kế hoạch; sau đây là ba cách tiếp cận chủ yếu: 
Thứ nhất: Tiếp cận kế hoạch với tính cách là một quá trình thực hiện mục tiêu của 
một hoạt động thì kế hoạch là trình tự tiến hành hoạch định, tổ chức thực hiện nhằm đạt 
được mục tiêu đề ra. Với cách tiếp cận này sẽ có khái niệm về kế hoạch hoá. 
Thứ hai: Tiếp cận kế hoạch với tính cách là quá trình cân đối nguồn lực cho một 
hoạt động thì kế hoạch là quá trình cân đối tích cực giữa yêu cầu của hoạt động với các 
nguồn lực thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra. 
Thứ ba: Tiếp cận kế hoạch với tính cách là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động thì 
kế hoạch là các phương án tổ chức thực hiện hoạt động để đạt được mục tiêu đề ra. 
Khái niệm “Kiểm toán” theo quan niệm hiện đại: Ở nước ta, thuật ngữ “Kiểm toán” 
mới chỉ thực sự xuất hiện và đưa vào sử dụng trong những năm đầu của thập kỷ 90. Vì vậy 
cách hiểu và cách dùng về khái niệm “Kiểm toán” chưa được thống nhất. Tuy nhiên, theo 
quan điểm hiện đại: “Kiểm toán là việc xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động 
được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các 
kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có 
hiệu lực”. 
Từ đó, có thể hiểu khái niệm “Kế hoạch kiểm toán” là sự sắp đặt hoặc hoạch định 
đường lối có hệ thống về những công việc kiểm toán dự định sẽ làm để xác minh và bày tỏ 
ý kiến về thực trạng được kiểm toán. 
Yêu cầu của mỗi cuộc kiểm toán là phải đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính 
hiệu lực thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết 
luận kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các số liệu trên Báo cáo tài chính. Để đạt 
được các yêu cầu trên, kế hoạch kiểm toán phải được xây dựng một cách khoa học. 
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán 
nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. 
Việc lập kế hoạch kiểm toán đã được quy định rõ trong các chuẩn mực kiểm toán hiện 
hành, Chuẩn mực thứ tư trong mười Chuẩn mực Kiểm toán được chấp nhận rộng rãi 
(GAAS) đòi hỏi công tác kiểm toán phải được lập kế hoạch đầy đủ và các trợ lý nếu có 
phải được giám sát đúng đắn. Trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Số 300 - Điểm 2 
cũng nêu rõ “Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để đảm bảo 
cuộc kiểm toán đã được tiến hành một cách có hiệu quả”. 
Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán phải 
được lập một cách thích hợp nhằm bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm 
toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm tàng; đảm bảo cuộc kiểm toán được 
hoàn thành đúng thời hạn. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu của 
cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị cho hoạt động kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong 
công tác kiểm toán đã được quy định thành Chuẩn mực. 
Như vậy, lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán cần 
phải tiến hành để đảm bảo cho toàn bộ cuộc kiểm toán được thực hiện thành công. Tuy 
nhiên, lập kế hoạch kiểm toán không phải là một hoạt động đơn lẻ mà bao gồm rất nhiều 
các bước công việc nối tiếp nhau. Bởi vì lập kế hoạch kiểm toán là một công việc không 
đơn giản, một mặt đòi hỏi kiểm toán viên phải có trình độ chuyên môn cao, mặt khác nó 
đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng khác nhau. 
Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính: 
Giai đoạn I: Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán. 
Giai đoạn II: Thực hiện kế hoạch kiểm toán. 
Giai đoạn III: Hoàn thành kiểm toán và công bố Báo cáo kiểm toán. 
Để hiểu rõ hơn về quy trình lập kế hoạch kiểm toán, đồng thời có thể lập kế hoạch 
kiểm toán một cách khoa học và thống nhất theo một chuẩn mực chung được thừa nhận 
rộng rãi, người ta lại chia lập kế hoạch kiểm toán thành ba bộ phận: 
 Kế hoạch chiến lược. 
 Kế hoạch tổng thể. 
 Chương trình kiểm toán. 
Các bộ phận của kế hoạch kiểm toán phụ thuộc vào đặc trưng của từng cuộc kiểm toán. 
Kế hoạch chiến lược là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương pháp tiếp 
cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo lập ra dựa trên hiểu biết về tình hình hoạt 
động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán. 
Theo những hướng dẫn của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 300 - từ điểm 14 
đến điểm 17: 
 Cuộc kiểm toán lớn về quy mô là cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính tổng hợp ( hoặc báo 
cáo tài chính hợp nhất) của Tổng công ty, trong đó có nhiều công ty đơn vị trực thuộc cùng 
loại hình hoặc khác loại hình kinh doanh. 
 Cuộc kiểm toán có tính chất phức tạp là cuộc kiểm toán có dấu hiệu tranh chấp, kiện 
tụng hoặc nhiều hoạt động mới mà kiểm toán viên và Công ty kiểm toán chưa có nhiều 
kinh nghiệm. 
 Cuộc kiểm toán địa bàn rộng là cuộc kiểm toán của đơn vị có nhiều đơn vị cấp dưới 
nằm trên nhiều tỉnh, thành phố khác nhau, kể cả các chi nhánh ở nước ngoài. 
 Kiểm toán Báo cáo tài chính nhiều năm là khi Công ty kiểm toán ký hợp đồng kiểm 
toán cho một số năm tài chính liên tục, ví dụ từ năm 2005 đến 2007. 
Kế hoạch chiến lược là cơ sở lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, là cơ sở chỉ đạo thực 
hiện và soát xét kết quả của cuộc kiểm toán. 
Việt Nam đã ra nhập WTO, xuất phát từ các quy định của nhà nước về các đối tượng 
kiểm toán bắt buộc mà số lượng khách hàng của các Công ty kiểm toán ngày càng tăng 
theo. Để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán, bắt buộc phải có những hướng dẫn cụ 
thể hơn trong việc lập kế hoạch kiểm toán cho những đối tượng phức tạp, quy mô lớn, địa 
bàn rộng… Do đó, khái niệm và nội dung lập kế hoạch chiến lược ra đời nhằm thoả mãn 
những yêu cầu đó. 
Kế hoạch kiểm toán tổng thể là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và phương pháp 
tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán. Mục 
tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để có thể thực hiện công việc kiểm toán 
một cách có hiệu quả và đúng thời hạn. 
Dựa vào khái niệm trên, có thể thấy rằng kế hoạch kiểm toán tổng thể trước hết phải 
đảm bảo được chức năng cơ bản của nó là cụ thể hoá, chi tiết hoá kế hoạch chiến lược đã 
được lập ban đầu. Tuy nhiên, đối với những khách hàng mà công ty kiểm toán không lập 
kế hoạch chiến lược (vì xét thấy không cần thiết), thì lập kế hoạch tổng thể là bước công 
việc đầu tiên cần thực hiện. Do đó, kế hoạch kiểm toán tổng thể cũng phải cung cấp được 
những hiểu biết về tình hình kinh doanh của khách hàng, những vấn đề liên quan đến Báo 
cáo tài chính (chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán mà khách hàng áp dụng), vùng rủi ro chủ 
yếu của đơn vị khách hàng, hệ thống kiểm soát nội bộ. Từ đó, xác định mục tiêu kiểm toán 
phương pháp tiếp cận, dự kiến nhân sự và thời gian tiến hành…. 
Về khái niệm chương trình kiểm toán: Theo Từ điển Tiếng Việt, chương trình là “ 
những dự kiến hoạt động được kê ra từng việc, từng khoản theo thứ tự”. Như vậy, xét về 
mức độ chi tiết thì chương trình chi tiết hơn so với kế hoạch. Có thể hiểu chương trình 
kiểm toán là toàn bộ những chỉ dẫn cho kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán tham gia vào 
công việc kiểm toán và là phương tiện ghi chép theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm 
toán. Chương trình kiểm toán chỉ dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội dung, lịch 
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ước tính cần thiết cho từng 
phần hành. 
1.2. Vị trí của lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính. 
Kế hoạch kiểm toán là giai đoạn không thể thiếu và chi phối tới chất lượng, hiệu quả 
chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa này được thể hiện ở một số điểm sau: 
 Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy 
đủ và có giá trị. Các bằng chứng này chính là cơ sở để kiểm toán viên đưa ra các ý kiến 
xác đáng về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính được kiểm toán. Từ đó kiểm 
toán viên sẽ hạn chế được những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu 
quả công việc và giữ được uy tín nghề nghiệp với khách hàng. 
 Kế hoạch kiểm toán giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối 
hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan khác như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia bên 
ngoài… Qua đó, kiểm toán viên có thể tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình 
đã lập với các chi phí ở mức hợp lý, tăng cường sức cạnh tranh cho Công ty kiểm toán của 
mình và giữ uy tín với khách hàng. 
 Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán viên thống nhất với khách hàng về nội 
dung công việc sẽ được thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như trách nhiệm của 
mỗi bên… Do đó, một kế hoạch kiểm toán phù hợp sẽ giúp Công ty kiểm toán tránh được 
những bất đồng với khách hàng. 
 Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, kiểm toán viên có thể kiểm soát 
và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần nâng cao chất 
lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó thắt chặt mối quan hệ giữa Công ty kiểm toán 
với khách hàng. 
2. Trình tự lập kế hoạch kiểm toán. 
2.1. Lập kế hoạch chiến lược. 
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 300 - Kế hoạch kiểm toán: “ Kế hoạch 
chiến lược phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán lớn về quy mô, tính chất phức tạp, địa 
bàn rộng hoặc kiểm toán Báo cáo tài chính của nhiều năm”. 
Nội dung và các bước công việc của kế hoạch chiến lược: Đối với khách hàng kiểm 
toán mà Công ty kiểm toán xét thấy cần phải lập kế hoạch chiến lược, thì có thể coi kế 
hoạch chiến lược chính là cơ sở đầu tiên có ảnh hưởng tới toàn bộ quy trình lập kế hoạch 
kiểm toán sau này. Kế hoạch kiểm toán tổng thể sau đó sẽ được lập dựa trên kế hoạch 
chiến lược, chương trình kiểm toán sẽ được lập dựa trên kế hoạch kiểm toán tổng thể. Do 
đó, kế hoạch chiến lược phải đảm bảo cung cấp những hiểu biết tối thiểu về khách hàng để 
từ đó đề ra những bước công việc cơ bản nhất cần tiến hành và thời gian thực hiện cuộc 
kiểm toán. 
Tám bước công việc của kế hoạch chiến lược: 
Thứ nhất: Tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng: Tổng hợp thông tin về 
lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu, quy trình công nghệ, tổ chức 
bộ máy quản lý và thực tiễn hoạt động của đơn vị. Đặc biệt lưu ý đến những nội dung chủ 
yếu như: Động lực cạnh tranh, phân tích thái cực kinh doanh của các doanh nghiệp cũng 
như các yếu tố về sản phẩm, thị trường tiêu thụ, giá cả và các hoạt động hỗ trợ sau bán 
hàng… 
Thứ hai: Xác định những vấn đề liên quan đến Báo cáo tài chính như: chế độ kế 
toán, chuẩn mực kế toán áp dụng, yêu cầu về lập Báo cáo tái chính và quyền hạn của Công 
ty. 
Thứ ba: Xác định những vùng rủi ro chủ yếu của doanh nghiệp và ảnh hưởng của nó 
tới Báo cáo tài chính (đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát). 
Thứ tư: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. 
Thứ năm: Xác định các mục tiêu kiểm toán trọng tâm và phương pháp tiếp cận kiểm 
toán. 
Thứ sáu: Xác định nhu cầu về sự hợp tác của các chuyên gia như: Chuyên gia tư vấn 
pháp luật, kiểm toán viên nội bộ, kỹ sư xây dựng, kỹ sư nông nghiệp… 
Thứ bảy: Dự kiến nhóm trưởng và thời gian thực hiện. 
Thứ tám: Giám đốc duyệt và thông báo kế hoạch chiến lược đã được phê duyệt, 
trưởng nhóm kiểm toán lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán. 
 2.2. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể. 
“Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán, trong đó mô tả 
phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán”. Như vậy, kế hoạch kiểm 
toán bắt buộc phải lập cho mọi cuộc kiểm toán. Nói cách khác, kế hoạch kiểm toán được 
lập và được duyệt chính là kim chỉ nam cho hoạt động của nhóm kiểm toán sau này. 
Tuy nhiên, mỗi Công ty kiểm toán có một hệ thống phương pháp luận riêng, mỗi 
khách hàng lại có đặc trưng riêng cho từng thời điểm kinh doanh nhất định. Do đó, không 
có một khuôn mẫu cụ thể về lập kế hoạch kiểm toán tổng thể của mọi Công ty kiểm toán, 
áp dụng cho tất cả các khách hàng tại mọi thời điểm. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam một 
mặt quy định rằng kế hoạch kiểm toán tổng thể phải đầy đủ, chi tiết làm cơ sở để lập 
chương trình kiểm toán, mặt khác cũng chỉ ra rằng hình thức và nội dung của kế hoạch 
kiểm toán tổng thể thay đổi tuỳ theo quy mô của khách hàng, tính chất phức tạp của công 
việc kiểm toán, phương pháp và kỹ thuật kiểm toán đặc thù do kiểm toán viên sử dụng. 
Lập kế hoạch kiểm toán (Bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm 
toán) gồm sáu bước công việc được miêu tả theo sơ đồ sau: 
Sơ đồ 01. Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế chương trình kiểm toán. 
Chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán 
Thu thập thông tin cơ sở 
Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm 
toán 
2.2.1. Chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán. 
Quy trình kiểm toán được bắt đầu khi kiểm toán viên và Công ty kiểm toán thu nhận 
một khách hàng. Có thể hiểu một cách khái quát quá trình thu nhận khách hàng bao gồm 
hai giai đoạn: Thứ nhất, liên lạc với khách hàng; thứ hai, khi khách hàng này đã có nhu cầu 
kiểm soát, xem xét khả năng chấp nhận yêu cầu. Trên cơ sở đã chấp nhận khách hàng mới 
tiến hành lập kế hoạch kiểm toán. 
Chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm các công việc sau: 
Thứ nhất: Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán. 
Kiểm toán viên phải đánh giá xem việc chấp nhận một khách hàng mới hay tiếp tục 
kiểm toán cho một khách hàng cũ có làm tăng rủi ro cho hoạt động của kiểm toán viên hay 
làm hại đến uy tín của Công ty kiểm toán hay không. Để có được nhận định chính xác, cần 
tiến hành các công việc sau đây: 
 Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng. 
Vì bản thân sự ra đời của kiểm toán ngay từ đầu đã chứa đựng những yếu tố hướng 
tới sự chuẩn mực, do đó việc kiểm soát chất lượng kiểm toán là một yêu cầu không thể 
thiếu. Vai trò của kiểm toán Báo cáo tài chính trước hết là cung cấp cho các bên hữu quan 
và những người quan tâm đến ý kiến của kiểm toán về mức độ trung thực, hợp lý của Báo 
Thu thập thông tin về nghĩa vụ 
pháp lý của khách hàng và thực 
hiện các thủ tục phân tích. 
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ 
và đánh giá rủi ro kiểm soát. 
Soạn thảo chương trình kiểm toán 
cáo tài chính đã được kiểm toán; thứ nữa là giúp cho doanh nghiệp và Nhà nước chấn 
chỉnh công tác kế toán và quản lý. Như vậy, bản thân hoạt động kiểm toán bắt buộc phải 
tuân theo những chuẩn mực để bảo đảm chất lượng của chính nó trước khi trở thành thước 
đo cho các hoạt động khác. 
Thế nào là chất lượng hoạt động kiểm toán? Đâu là thước đo để đánh giá hoạt động 
kiểm toán? Thực chất, đây là khái niệm có tính tương đối, rất phứp tạp. Ở mỗi quốc gia 
khác nhau sẽ có một hệ thống các tiêu thức đánh giá chất lượng kiểm toán khác nhau, bởi 
vì những chuẩn mực kiểm toán giữa các quốc gia có thể khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống 
Chuẩn mực kiểm toán của từng quốc gia đều có một cơ sở chung là hệ thống các chuẩn 
mực kiểm toán được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới. Nên có thể khái quát chất lượng 
kiểm toán: ”Là mức độ thoả mãn các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách 
quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên, đồng thời thoả mãn mong 
muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng 
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước và giá phí hợp lý”. (Trích 
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán). 
 Tính liêm chính của Ban giám đốc khách hàng. 
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, 
tính liêm chính của Ban giám đốc là bộ phận cấu thành then chốt của môi trường kiểm 
soát, đây là nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát nội bộ. Môi 
trường kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của các thủ tục kiểm soát. 
Kiểm toán thường dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của bản thân để đánh giá rủi ro 
tiềm tàng dựa trên phương diện Báo cáo tài chính, số dư tài khoản và loại nghiệp vụ cụ thể. 
Trong đó, tính liêm chính của Ban giám đốc khách hàng đóng vai trò chủ yếu trong 
phương diện Báo cáo tài chính. Ví dụ như sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của 
Ban giám đốc, trình độ chuyên môn của kế toán trưởng, những áp lực bất thường đối với 
Ban giám đốc thúc đẩy họ phải trình bày Báo cáo tài chính không trung thực… Khi Báo 
cáo tài chính được trình bày không trung thực thì không thể dựa vào bất kỳ bản giải trình 
nào của Ban giám đốc hay các sổ sách kế toán để đưa ra những đánh giá về rủi ro tiềm 
tàng, hệ thống kiểm soát nội bộ. Từ đó, không thể lập được kế hoạch kiểm toán thích hợp. 
Do đó, những nghi ngại về tính liêm chính của Ban giám đốc khách hàng có thể 
nghiêm trọng đến nỗi đưa ra kết luận rằng cuộc kiểm toán không thể thực hiện được. 
 Liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm. 
Mục đích của việc liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm là để kiểm toán viên và 
công ty kiểm toán kế nhiệm có đầy đủ cơ sở để đánh giá khả năng chấp nhận cuộc kiểm 
toán. 
 Đa số những Công ty kiểm toán có những khách hàng truyền thống. Với sự phát triển 
của ngành kiểm toán trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, số lượng khách hàng 
kiểm toán ngày càng tăng. mỗi năm những công ty kiểm toán lại có thêm khách hàng mới 
có nhu cầu kiểm toán Báo cáo tài chính. Có thể phân chia số lượng khách hàng mới này 
thành hai loại: khách hàng tiềm năng (trước đây khách hàng này đã được kiểm toán bởi 
một Công ty kiểm toán khác), khách hàng mới (khách hàng chưa từng được kiểm toán bởi 
Công ty kiểm toán nào). 
 Đối với khách hàng tiềm năng: Một trong những phương pháp hiệu quả nhất để kiểm 
toán viên kế nhiệm tìm hiểu về khách hàng mới là liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm. 
Thông qua kiểm toán viên tiền nhiệm kiểm