Một quốc gia được tạo nên từ bốn thành tố: Lãnh thổ, Nhà nước, thị trường và Dân
cư. Trong đó, lãnh thổ chính là phần đất đai thuộc chủ quyền của một nước. Lãnh thổ
giữa các nước với nhau được phân biệt bởi đường biên giới. Biên giới quốc gia là nơi
phân chia chủ quyền lãnh thổ của quốc gia này với quốc gia khác hoặc với các vùng
biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Nước Việt Nam ta có
chung đường biên giới trên đất liền với ba nước là Cộng hoà nhân dân Trung Hoa,
Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia với tổng cộng chiều dài
khoảng 4.610 km (trong đó với Trung Quốc là 1.406 km, với Lào là 2.067 km, với
Campuchia là 1.137 km) [115, tr.3]. Là quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển lâu
đời, đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng trải qua
nhiều biến cố thăng trầm
145 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3947 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam thời vương triều Nguyễn (1802 – 1883), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thúy Ái
HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO
VIỆT NAM THỜI VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN
(1802 – 1883)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thúy Ái
HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO
VIỆT NAM THỜI VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN
(1802 – 1883)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH HOA
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa
từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Thị Thúy Ái
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT CÁC VÙNG BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO VIỆT NAM ...... 12
1.1. Vị trí địa lí các vùng biên giới, biển đảo Việt Nam ............................................... 12
1.1.1. Các vùng biên giới ....................................................................................... 12
1.1.2. Các vùng biển đảo ........................................................................................ 19
1.2. Tầm quan trọng của vùng biên giới, biển đảo Việt Nam....................................... 24
1.2.1. Tầm quan trọng của khu vực biên giới quốc gia .......................................... 24
1.2.2.Tầm quan trọng của các vùng biển đảo Việt Nam ........................................ 25
1.3. Tầm nhìn của triều Nguyễn về vấn đề biên giới, biển đảo Việt Nam .................. 30
1.3.1. Vấn đề biên giới trong nhận thức của triều Nguyễn .................................... 30
1.3.2. Tầm nhìn của triều Nguyễn về vấn đề biển đảo ........................................... 32
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 35
Chương 2. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI VIỆT NAM CỦA TRIỀU
NGUYỄN (1802-1883) ............................................................................. 36
2.1. Xây dựng cơ sở chuẩn bị cho việc phòng thủ, bảo vệ biên giới thời vương
triều Nguyễn (1802-1883). ........................................................................................ 36
2.1.1. Xây dựng lực lượng quân đội ...................................................................... 36
2.1.2. Xây dựng các đồn, bảo ở biên giới .............................................................. 40
2.2. Hoạt động bảo vệ biên giới Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1883) .............. 44
2.2.1. Chính sách “phủ dụ, vỗ yên”đối với các dân tộc thiểu số vùng biên giới ... 44
2.2.2. Kiên quyết đấu tranh chống thổ phỉ, giữ gìn cương giới quốc gia .............. 55
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 76
Chương 3. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIỂN ĐẢO CỦA TRIỀU NGUYỄN
(1802-1883) ............................................................................................. 78
3.1. Triều Nguyễn tiếp tục xác lập và thực thi chủ quyền đối với các vùng biển
đảo Việt Nam .............................................................................................................. 78
3.1.1. Vùng biển miền Trung (chủ yếu là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) ........... 78
3.1.2. Vùng biển Tây Nam ................................................................................................ 79
3.2. Thực hiện phòng thủ, bảo vệ các vùng biển đảo Việt Nam .................................. 81
3.2.1. Xây dựng lực lượng thủy quân .................................................................... 81
3.2.2. Đầu tư đóng thuyền và phát triển hệ thống tàu thuyền ................................ 89
3.2.3. Hoạt động phòng thủ ở các cửa biển ............................................................ 95
3.2.3.1. Xây dựng hệ thống đồn bảo, pháo đài ở các cửa biển trọng yếu .............. 95
3.3. Hoạt động đảm bảo an ninh các vùng biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn
(1802-1883) ............................................................................................................... 102
3.3.1. Tuần tra, giám sát các vùng biển đảo ......................................................... 102
3.3.1.1. Hoạt động tuần tra các vùng biển đảo ..................................................... 102
3.3.2. Hoạt động tiễu trừ giặc biển ....................................................................... 116
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 128
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 129
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 132
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một quốc gia được tạo nên từ bốn thành tố: Lãnh thổ, Nhà nước, thị trường và Dân
cư. Trong đó, lãnh thổ chính là phần đất đai thuộc chủ quyền của một nước. Lãnh thổ
giữa các nước với nhau được phân biệt bởi đường biên giới. Biên giới quốc gia là nơi
phân chia chủ quyền lãnh thổ của quốc gia này với quốc gia khác hoặc với các vùng
biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Nước Việt Nam ta có
chung đường biên giới trên đất liền với ba nước là Cộng hoà nhân dân Trung Hoa,
Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia với tổng cộng chiều dài
khoảng 4.610 km (trong đó với Trung Quốc là 1.406 km, với Lào là 2.067 km, với
Campuchia là 1.137 km) [115, tr.3]. Là quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển lâu
đời, đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng trải qua
nhiều biến cố thăng trầm.
Song song đó, biển đảo - một phần lãnh thổ quốc gia Việt Nam có vị trí chiến lược
quan trọng, đóng vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ an
ninh Tổ quốc. Trong lịch sử, các triều đại phong kiến nước ta đã rất quan tâm thực thi
chủ quyền, khai thác các nguồn lợi từ biển đảo để góp phần phát triển kinh tế: Thời
Lý, năm 1149, vua Lý Anh Tông đã xây dựng trang Vân Đồn; thời Lê, năm 1426, đặt
Tuần Kiểm ở các xứ cửa biển, các đồn, đảo để quản lý, thu thuế các tàu thuyền nước
ngoài qua lại nước ta. Sang thời chúa Nguyễn, các chúa đã thành lập các đội Hoàng
Sa, Bắc Hải để khai thác đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đối với mọi quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ là điều rất thiêng liêng. Do đó, quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta gắn liền với cuộc đấu tranh giữ gìn
biên cương, biển đảo của Tổ Quốc. Ý thức bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia trong lịch sử nước ta được ghi lại bởi những trận chiến oanh liệt: Chống giặc
Quỳnh Châu ở biên giới phía Bắc; diệt Hồ Tôn từ phía Nam (thời Hùng Vương); quân
thủy của nữ tướng Lê Chân làm khiếp đảm quân thủy của địch ở vùng biển Hải Phòng
ngày nay (thời Hai Bà Trưng); chặn đánh Trần Bá Tiên ở sông Tô Lịch, hồ Điển Triệt,
đầm Dạ Trạch (thời Lý Nam Đế); trận Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 của Ngô
Quyền; trận chiến ở biên giới Đông Bắc thời Lê Hoàn; trận Bạch Đằng lần thứ hai năm
2
981; náo động châu Khâm, châu Liêm năm 1075; chặn đứng quân địch ở ngoài vùng
biển năm 1077 (thời Lý). Trong kháng chiến chống quân Mông- Nguyên lần thứ 3
năm 1288, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn đã tạo nên chiến công
vang dội trên sông Bạch Đằng lịch sử, tiêu diệt toàn bộ đạo quân thủy 6 vạn tên
Bước sang thế kỉ XVI, XVII và những năm đầu thế kỉ XVIII, thủy quân Việt Nam đã
chiến thắng hạm đội của thực dân Hà Lan năm 1642-1643, đánh thắng hạm đội thực
dân Anh năm 1702
Thế kỉ XIX, triều Nguyễn được thành lập, cai quản lãnh thổ đất nước từ Bắc đến
Nam. Các vị vua triều Nguyễn đều nhận thức được tầm quan trọng của biên giới, biển
đảo đối với sự tồn vong, an ninh của quốc gia, vận mệnh dân tộc. Do vậy, cùng với
việc quản lí đất nước, phát triển kinh tế, các vị vua triều Nguyễn cũng ra sức bảo vệ
vững chắc vùng biên giới, biển đảo – phần máu thịt thiêng liêng của Tổ Quốc. Vậy,
triều Nguyễn đã có những hoạt động quân sự cụ thể nào để bảo vệ các vùng biên giới,
biển đảo của Tổ Quốc?
Là một giáo viên THPT, đang công tác và giảng dạy tại một tỉnh vùng sâu, tôi hi
vọng với việc tìm hiểu, tổng hợp lại về những hoạt động quân sự của triều Nguyễn
nhằm bảo vệ vùng biên giới, biển đảo Việt Nam sẽ góp một phần nhỏ trong việc đánh
giá khách quan về triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng sẽ là
nguồn tư liệu hữu ích, phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu của giáo viên, học
sinh và sinh viên sau này.
Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Hoạt động bảo vệ biên giới, biển
đảo Việt Nam thời vương triều Nguyễn (1802-1883)” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố:
Trước tiên phải nhắc đến những sách và những công trình nghiên cứu về triều
Nguyễn, trong đó có đề cập ở những mức độ khác nhau về những hoạt động bảo vệ
biên giới, biển đảo Việt Nam của triều Nguyễn.
- Bộ sách “Đại Nam Thực Lục”do Quốc Sử Quán triều Nguyễn thừa lệnh triều đình
biên soạn theo lối biên niên, tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch – Nhà xuất bản
Giáo Dục ấn hành, gồm hai phần: Công trình Đại Nam Thực Lục tiền biên do các sử
3
thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn viết xong năm 1844. Đây là bộ sử viết về toàn
bộ mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao thời các chúa Nguyễn từ năm
1558-1778. Trong công trình này, các tác giả có viết về Vạn Lý Hoàng Sa, về hải đội
Hoàng Sa (số lượng người, nhiệm vụ, thời gian thực thi công tác). Công trình Đại
Nam Thực Lục chính biên viết về mọi lĩnh vực thời các vua Nguyễn. Phần viết về các
đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị được soạn xong năm 1848. Trong công trình
này, các tác giả ghi chép về sự kiện các vua triều Nguyễn chiếm hữu các đảo thuộc
quần đảo Hoàng Sa, thực thi và bảo vệ chủ quyền các vùng biên giới, biển đảo của
Việt Nam. Đây là bộ sách lớn viết về lịch sử triều Nguyễn, có giá trị pháp lý cao, nội
dung đầy đủ, chân thực và sinh động về toàn cảnh xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự và ngoại giao; trong đó đề cập rất nhiều về những
hoạt động của triều Nguyễn trong việc bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam.
- Sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”là bộ sách do các đại thần triều Nguyễn
theo lệnh vua ghi chép những công tác của triều đình thuộc Lục bộ, về pháp luật, điển
chương, chính trị, văn hóaTrong đó, tập V của bộ sách đã dành rất nhiều trang viết
về hoạt động huấn luyện thủy quân, công tác diễn tập thuyền bè, trang bị của lực lượng
quân đội, phòng ngừa, bảo vệ vùng biên giới, biển đảo Tổ Quốc, hoạt động tuần biển,
công tác khen thưởng ban cấp cho lực lượng thủy quân, trang bị ở các đồn đài vùng
biên giới, cửa biển, về Hoàng Sa, Trường Sa Cách viết là tập hợp những ghi chép
chi tiết của các đại thần đứng đầu Lục bộ rồi chuyển cho một vị đại thần có trách
nhiệm do triều đình chỉ định trước, viết thành sách. Sách này được viết từ năm Thiệu
Trị thứ ba (1843) đến năm Tự Đức thứ tư (1851) thì hoàn tất. Sách gồm 97 quyển,
chép từ thời Gia Long năm thứ nhất (1802) đến Tự Đức năm thứ tư (1851). Sau đó
được tiếp tục với tên “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên”(1852-1945).
- Bộ sách “Khâm định tiễu bình lưỡng kì nghịch phỉ phương lược chính biên”do Cơ
Mật Viện, Bộ Binh và Nội các triều Nguyễn tuân theo chỉ dụ của vua Minh Mạng biên
soạn, gồm 153 quyển, bao gồm:
Phần 1: Quyển đầu gồm Tổng mục, các bài tấu, biểu xin biên soạn và báo cáo sách
đã hoàn thành xin được khắc in dâng lên vua Minh Mạng, tiếp theo là 2 quyển Thiên
chương Ngự chế thi - tập hợp 72 bài thơ với lời chú cụ thể từng bài của vua Minh
4
Mệnh về tâm trạng lo lắng cũng như vui mừng trước diễn biến của quá trình trấn áp
những cuộc nổi dậy ở các vùng trong cả nước.
Phần 2: Khâm định tiễu bình Bắc Kì nghịch phỉ phương lược chính biên (gồm 80
quyển)
Phần 3: Khâm định tiễu bình Nam Kì nghịch phỉ phương lược chính biên (gồm 47
quyển).
Phần 4: Khâm định tiễu bình Xiêm khấu phương lược chính biên (gồm 15 quyển).
Phần 5: Khâm định tiễu bình Thuận tỉnh man phỉ phương lược phụ biên (gồm 8
quyển).
Nội dung của bộ sách tập hợp toàn bộ công văn, chỉ dụ của nhà vua, các bản tấu,
biểu của các viên đại thần, tướng lĩnh cầm quân đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy và xâm
lược trên cả miền Bắc, miền Nam trong thời gian 3 năm, từ năm Minh Mệnh thứ 14
(1833) đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835). Bộ sách được biên soạn theo phương pháp
thực lục, tức là các sự kiện được chép liên quan theo thứ tự ngày, tháng, năm.
- Bộ sách “Minh Mệnh chính yếu” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, viết về
những phương cách cai trị đất nước thời Minh Mạng, được chia ra làm 3 tập, đáng chú
ý là tập 3, quyển 23, 24, 25 đề cập đến các vấn đề phòng thủ vùng biên giới, biển đảo
và chính sách cụ thể đối với những nơi này
- Mục lục châu bản triều Nguyễn, châu bản triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức là tư liệu tiếng Hán được lưu lại cho đến ngày nay. Đến năm 1963, các châu
bản này lần lượt được học giả Trần Kinh Hòa dịch ra tiếng Việt, nội dung chính là tập
hợp các chiếu chỉ, sắc dụ của nhà vua về công việc của đất nước, trong đó có nhiều sắc
lệnh về việc bảo vệ biên cương, biển đảo Tổ Quốc.
- Bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”- do Phan Huy Chú biên soạn từ năm
1821 đến 1833, sau đó được khắc in ở Huế và Chợ Lớn. Đây là tác phẩm bách khoa
lớn, gồm 49 quyển, chia làm 10 phần, trong đó, riêng phần Địa dư chí, sau được khắc
in thành bộ sách riêng có nhan đề là “Hoàng Việt địa dư chí”. Sách đã chép đủ các địa
danh dù đương thời các địa danh này còn hay thay đổi. Trong quyển 5, nghiên cứu về
đạo Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa; phần lớn đều viết về Hoàng Sa, Trường Sa, việc thực
thi và bảo vệ chủ quyền của đội Hoàng Sa, Bắc Hải.
5
- Sách “Phủ Biên tạp lục”– Lê Quý Đôn, đây là bộ sách được tác giả viết vào thời
gian trấn nhậm tại hai đạo Thuận Hóa và Quảng Nam nay thuộc Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Sách có giá trị lớn về văn
học, lịch sử, địa lí. Sách được viết vào năm 1776. Tên “Phủ biên tạp lục”có nghĩa là
ghi lại những việc đang xảy ra và cách giải quyết các vấn đề phủ dụ, trấn an vùng biên
thùy phía nam. Sách gồm 6 quyển, trong đó đáng chú ý là quyển II, và quyển IV.
Quyển thứ II có 2 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, về việc tổ chức hải đội
Hoàng Sa và Bắc Hải nhằm thực thi và bảo vệ chủ quyền trên vùng biển đảo Việt Nam
thời Nguyễn. Đây là một sử liệu đầy đủ và chính xác về chủ quyền Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quyển IV viết về vấn đề ở vùng thượng du và biên
phòng trên vùng đất phía Nam. Sách được dịch sang tiếng Việt vào năm 1964.
Ngoài những công trình mang tính chính thống trên, gần đây, có nhiều tác phẩm
cũng đề cập đến việc bảo vệ biên giới, biển đảo dưới triều Nguyễn, tiêu biểu như:
- Sách “Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam”- Nguyễn Thái Anh chủ biên, nhà
xuất bản Thời Đại ấn hành, chia làm 3 phần:
Phần 1: Những cứ liệu lịch sử quan trọng - cung cấp những tài liệu, cứ liệu mang
tính pháp lý về chủ quyền biển đảo Việt Nam như: Công ước quốc tế về Luật biển năm
1982, một số nội dung văn bản từ các triều đại phong kiến Việt Nam khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Phần 2: Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam- gồm những bài viết đặc sắc, những
tuyên bố khẳng định quyền bất khả xâm phạm về chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Những biện pháp đấu tranh khôn khéo không khoan nhượng để bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ, lãnh hải Việt Nam. Những bài viết thế hiện sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với
Việt Nam, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi cơ quan, ban
ngành, đoàn thể trong công cuộc gìn giữ bảo vệ Tổ Quốc.
Phần 3: Biển đảo Việt Nam trong văn chương, thơ ca, âm nhạc.
- Sách “Người Việt với biển”do Nguyễn Văn Kim chủ biên. Dưới góc độ nghiên cứu
lịch sử, tác phẩm này có ba nội dung cơ bản, đáng chú ý là nội dung thứ 3 - chủ quyền
và hoạt động bảo vệ an ninh biển đảo: Chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và nhiều vùng đảo khác được đề cập thông qua tài liệu ghi chép trong
6
chính sử Trung Quốc và qua sự quan sát của các thương nhân. Trong phần này, tác giả
cũng đề cập đến “Thủy quân Việt Nam thế kỉ XVII, XVIII và đầu thế kỉ XIX qua
nguồn sử liệu phương Tây”. Từ đó cho ta thấy rằng, các chúa Nguyễn cũng như vua
Nguyễn đã có ý thức cao trong việc bảo vệ biển đảo Việt Nam.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học có tiêu đề “Biển Đông và hải đảo Việt Nam”- của nhiều
tác giả. Nội dung chính của sách là cung cấp sử liệu của nhà Nguyễn về chủ quyền
Hoàng Sa, Trường Sa; những hoạch định của triều Nguyễn trong việc thực thi chủ
quyền đối với hai quần đảo này và quy chế pháp lý của biển đảo Việt Nam Qua đó,
góp phần khẳng định chủ quyền và việc thực thi chủ quyền cũng như những hoạt động
bảo vệ biển đảo Việt Nam qua các thời kì, trong đó có triều Nguyễn.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Châu bản triều Nguyễn tiềm năng di sản tư liệu”do Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước tổ chức
tại Hà Nội. Kỷ yếu tập hợp nhiều báo cáo của các Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ hàng
đầu trong cả nước nghiên cứu về Châu bản triều Nguyễn. Hội thảo này không giới
thiệu tất cả các bài viết mà tập trung vào những báo cáo trực tiếp khảo cứu các văn bản
và đưa ra nhận xét, đánh giá về tình hình chính trị, quân sự, ngoại giao, các chủ trương
chính sách đối nội, đối ngoại, các mặt hoạt động của triều Nguyễn cùng những vấn đề
của đời sống kinh tế, xã hội và văn hóaTrong đó, chủ quyền biển đảo thực sự được
nhiều tác giả quan tâm, nổi bật nhất là các bài:
“Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa qua
các châu bản triều Nguyễn thế kỉ 19”- TS. Nguyễn Nhã, Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam. Bài viết tập hợp lại nội dung các châu bản ghi những nhiệm vụ cụ thể của công
tác Hoàng Sa; nói rõ việc đi cắm mốc chủ quyền đã thành lệ hàng năm, cách tổ chức
thủy quân thi hành nhiệm vụ và bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa.
“Châu bản triều Nguyễn- những giá trị đặc trưng của di sản văn hóa và văn bản
pháp lý nhà nước quân chủ Việt Nam”- PGS. TS. Đỗ Bang, Chủ tịch Hội Khoa học
Lịch sử Thừa Thiên Huế, khẳng định triều Nguyễn là nhà nước duy nhất vào thế kỉ 19
có văn bản của triều đình được Hoàng Đế phê duyệt đề cập đến nhiệm vụ của các đơn
vị, quan chức quản lý Hoàng Sa, là bằng chứng khẳng định chủ quyền nước Việt Nam
đối với Hoàng Sa- Trường Sa.
7
“Tư duy hướng biển trong Châu bản triều Nguyễn” - TS. Lê Huỳnh Hoa, Khoa Lịch
sử, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, khẳng định Việt Nam là nước có truyền
thống hướng biển. Truyền thống và tư duy hướng biển của dân tộc Việt Nam được thể
hiện rất rõ trong lịch sử dân tộc và Châu bản triều Nguyễn, qua hoạt động đóng tàu,
thuyền, phân loại và quản lí tàu thuyền; giữ gìn an ninh vùng biển và chống thủy phỉ;
hoạt động cứu hộ, cứu nạn trên biển; tổ chức, thực thi chủ quyền của Việt Nam tại
Hoàng Sa và Trường Sa.
- “Châu bản triều Nguyễn - cơ sở lịch sử về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và
Trường Sa”- bài viết của TS. Lê Huỳnh Hoa, khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm
Tp. Hồ Chí Minh đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử; trong đó tác giả khẳng định
Châu bản là nguồn tài liệu gốc phản ánh lịch sử một cách khách quan nhất, chính xác
nhất và cụ thể nh