1. Lý do chọn đề tài
Với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho kinh tế đối ngoại phát triển, giúp Việt Nam hoà mình vào xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới. Ngoại thương ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá như hiện nay. Thông qua ngoại thương, đặc biệt là hoạt động nhập khẩu, ngành công nghiệp còn non trẻ của chúng ta có điều kiện bổ sung những nguồn lực cho sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước.
Là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam, ngành thép cũng đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập. Mặc dù được quan tâm phát triển ngay từ khi mới ra đời nhưng với sự lệch lạc trong quá trình phát triển đã khiến cho đến nay ngành thép Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp thép Việt Nam trong một thời gian dài chỉ quan tâm đến đầu tư vào các nhà máy cán thép mà bỏ qua đầu tư sản xuất phôi thép để đến nay khả năng sản xuất phôi của Việt Nam chỉ chiếm 40% nhu cầu trong nước. Với việc phụ thuộc lớn vào lượng phôi nhập khẩu trong điều kiện có nhiều biến động phức tạp của thị trường thép thế giới, hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành thép nội địa.
Với vị trí hỗ trợ nhà nước trong việc điều tiết thị trường thép Việt Nam, Tổng công ty Thép đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của ngành thép. Mặc dù đã có sự quan tâm sớm đến hoạt động sản xuất phôi thép nhưng hiện nay nhập khẩu vẫn được coi là hoạt động thường nhật của Tổng công ty thép. Với mong muốn tìm hiểu về hoạt động nhập khẩu phôi thép cũng như những tác động của quá trình hội nhập đến ngành thép thông qua hoạt động này, em đã chọn đề tài “Hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn phòng Tổng công ty Thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận về thương mại quốc tế cùng với sự hỗ trợ của các phương pháp phân tích kinh tế, thu thập số liệu và nắm bắt thông tin qua quá trình khảo sát thực tế hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn phòng Tổng công ty Thép Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thép ngày càng nhiều. Trong đó, Tổng công ty Thép Việt Nam là doanh nghiệp lớn nhất và nắm vị trí chủ đạo của ngành thép nước ta. Sau khi chuyển sang mô hình công ty mẹ - con, công ty mẹ Tổng công ty Thép Việt Nam bao gồm 12 đơn vị trực thuộc, 7 công ty con và 22 công ty liên doanh. Trong đó có 25 công ty trực tiếp sản xuất, 6 công ty thương mại và 10 đơn vị là các viện, trường, dịch vụ, phụ trợ. Trên cơ sở nghiên cứu về Tổng công ty Thép dưới giác độ từ cơ quan Văn phòng của Tổng công ty rút ra những tồn tại của doanh nghiệp thép nói riêng và cả ngành thép nói chung dưới tác động của quá trình hội nhập.
4. Kết cấu chuyên đề
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương :
Chương I: Một số lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và vai trò của hoạt động nhập khẩu phôi thép đối với ngành thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Tổng công ty Thép Việt Nam dưới tác động của quá trình hội nhập
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp cho hoạt động nhập khẩu phôi thép trong điều kiện hội nhập
95 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3338 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động nhập khẩu phôi thép tại văn phòng tổng công ty thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho kinh tế đối ngoại phát triển, giúp Việt Nam hoà mình vào xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới. Ngoại thương ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá như hiện nay. Thông qua ngoại thương, đặc biệt là hoạt động nhập khẩu, ngành công nghiệp còn non trẻ của chúng ta có điều kiện bổ sung những nguồn lực cho sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước.
Là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam, ngành thép cũng đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập. Mặc dù được quan tâm phát triển ngay từ khi mới ra đời nhưng với sự lệch lạc trong quá trình phát triển đã khiến cho đến nay ngành thép Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp thép Việt Nam trong một thời gian dài chỉ quan tâm đến đầu tư vào các nhà máy cán thép mà bỏ qua đầu tư sản xuất phôi thép để đến nay khả năng sản xuất phôi của Việt Nam chỉ chiếm 40% nhu cầu trong nước. Với việc phụ thuộc lớn vào lượng phôi nhập khẩu trong điều kiện có nhiều biến động phức tạp của thị trường thép thế giới, hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành thép nội địa.
Với vị trí hỗ trợ nhà nước trong việc điều tiết thị trường thép Việt Nam, Tổng công ty Thép đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của ngành thép. Mặc dù đã có sự quan tâm sớm đến hoạt động sản xuất phôi thép nhưng hiện nay nhập khẩu vẫn được coi là hoạt động thường nhật của Tổng công ty thép. Với mong muốn tìm hiểu về hoạt động nhập khẩu phôi thép cũng như những tác động của quá trình hội nhập đến ngành thép thông qua hoạt động này, em đã chọn đề tài “Hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn phòng Tổng công ty Thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận về thương mại quốc tế cùng với sự hỗ trợ của các phương pháp phân tích kinh tế, thu thập số liệu và nắm bắt thông tin qua quá trình khảo sát thực tế hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn phòng Tổng công ty Thép Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thép ngày càng nhiều. Trong đó, Tổng công ty Thép Việt Nam là doanh nghiệp lớn nhất và nắm vị trí chủ đạo của ngành thép nước ta. Sau khi chuyển sang mô hình công ty mẹ - con, công ty mẹ Tổng công ty Thép Việt Nam bao gồm 12 đơn vị trực thuộc, 7 công ty con và 22 công ty liên doanh. Trong đó có 25 công ty trực tiếp sản xuất, 6 công ty thương mại và 10 đơn vị là các viện, trường, dịch vụ, phụ trợ... Trên cơ sở nghiên cứu về Tổng công ty Thép dưới giác độ từ cơ quan Văn phòng của Tổng công ty rút ra những tồn tại của doanh nghiệp thép nói riêng và cả ngành thép nói chung dưới tác động của quá trình hội nhập.
Kết cấu chuyên đề
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương :
Chương I: Một số lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và vai trò của hoạt động nhập khẩu phôi thép đối với ngành thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Tổng công ty Thép Việt Nam dưới tác động của quá trình hội nhập
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp cho hoạt động nhập khẩu phôi thép trong điều kiện hội nhập
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHÔI THÉP ĐỐI VỚI NGÀNH THÉP VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.1.1. Nhập khẩu và vai trò của nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
1.1.1.1. Sự cần thiết của nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
Ngày nay, cùng với sự phát triển và mở rộng không ngừng của quá trình quốc tế hoá và toàn cầu hoá, các quốc gia trên thế giới không còn là các quốc gia đơn lẻ nữa mà trở thành một trong những mắc xích quan trọng trong mạng lưới kinh tế, chính trị toàn cầu.
Khoa học công nghệ và kỹ thuật không ngừng tiến bộ và phát triển nhưng nó lại không tập trung hoàn toàn ở bất cứ quốc gia nào. Mỗi một quốc gia nhiều hay ít đều nắm giữ riêng cho mình một công nghệ, một bí quyết sản xuất riêng hay một thế mạnh đặc thù. Do đó, để có thể cùng nhau chia sẻ sự tiến bộ của khoa học công nghệ, các quốc gia phải tham gia vào thương mại quốc tế mà hình thức cụ thể là thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Bên cạnh đó, dựa vào vị trí địa lý cũng như tài nguyên thiên nhiên của mình, mỗi quốc gia xác định được thế mạnh riêng. Những nước có giàu tài nguyên thì đẩy mạnh khai thác nó (các nước dầu mỏ OPEC), những nước kém tài nguyên thì lại lựa chọn cho mình con đường sử dụng nguồn nhân lực của mình để phát triển (Nhật Bản). Chính từ sự khác nhau đó, các nước hình thành nên những lợi thế so sánh riêng, dựa vào đó mà các nước tiến hành trao đổi, buôn bán với nhau. Và sự trao đổi này diễn ra thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Như vậy có thể nói, cùng với sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, hoạt động buôn bán ngoại thương ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Là một bộ phận không thể thiếu của thương mại quốc tế, nhập khẩu được hiểu là sự mua bán hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc tạm nhập tái xuất nhằm thu lợi nhuận. Nó thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thể giới. Thông qua hoạt động nhập khẩu, các quốc gia bổ sung cho mình những hàng hóa trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu nội địa với chi phí thấp hơn hay cung cấp nguyên liệu cho sản xuất trong nước. Như vậy trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, hoạt động nhập khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung chính là cầu nối nền kinh tế trong nước với thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào” và tiêu thụ các “sản phẩm đầu ra” trong hệ thống kinh tế toàn cầu.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và từng bước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, vai trò của nhập khẩu được thể hiện ở những khía cạnh sau:
1.1.1.2.1. Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ lao động thủ công sang lao động bằng cơ khí ngày càng hiện đại hơn.
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Việt Nam phải thay đổi căn bản nền sản xuất trong nước theo hướng hiện đại hoá. Muốn làm vậy, chúng ta phải tiến hành đổi mới máy móc, công nghệ, thiết bị của các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghiệp điện và điện tử, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp gang thép, công nghiệp chế biến... Như vậy, nhập khẩu chính là một kênh cung cấp công nghệ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Những năm qua, cùng với sự thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu thì cơ cấu GDP cũng thay đổi theo. Cụ thể cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam có sự biến động giữa hai nhóm hàng tư liệu sản xuất và vật liệu tiêu dùng. Nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu hướng giảm trong 10 năm trở lại đây do sản xuất trong nước đã phần nào đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu máy móc, công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Điều này góp phần thúc đẩy nền công nghiệp trong nước phát triển, làm tăng tỷ lệ đóng góp của ngành trong cơ cấu GDP cả nước.
Bảng 1: GDP phân theo khu vực kinh tế
Đơn vị: %
Năm
Tổng số
Nông - lâm - ngư nghiệp
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1990
100,00
38,74
22,67
38,59
1995
100,00
27,18
28,76
44,06
2000
100,00
24,53
36,73
38,74
2005
100,00
20,97
41,02
38,01
2006
100,00
20,36
41,56
38,08
2007
100,00
17,8
41,76
40,43
(Nguồn: Tổng cục thống kê và
Như vậy, nhập khẩu cũng đã có tác động thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước.
1.1.1.2.2. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định
Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo những tỷ lệ nhất định như cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, giữa hàng hoá và lượng tiền trong lưu thông, giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong cán cân thanh toán quốc tế.
Nhập khẩu có tác động rất tích cựu thông qua việc cung cấp các điều kiện đầu vào làm cho sản xuất phát triển, mặt khác tạo điều kiện để các quốc gia chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận
1.1.1.2.3. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân
Nhập khẩu có vai trò làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Thông qua nhập khẩu, nhân dân có nhiều sự lựa chọn sản phẩm hơn cho cuộc sống, góp phần giảm bớt khoảng cách về mức sống so với các nước khác.
Nhập khẩu đồng thời tạo ra tính cạnh tranh cho sản xuất trong nước. Trên cơ sở đó buộc các doanh nghiệp trong nước không ngừng nâng cao chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, chủng loại cho sản phẩm của mình. Rõ ràng, trên phương diện này, nhập khẩu đã đem lại một tác động kép tích cực cho nền kinh tế.
1.1.1.2.4. Nhập khẩu có vai trò thúc đẩy xuất khẩu
Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang và kém phát triển như Việt Nam, vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn hạn chế. Điều này thể hiện rõ quan niệm hiện nay “lấy nhập khẩu để nuôi xuất khẩu” và sự phát triển gia công xuất khẩu ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đã chứng minh cho điều này.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu
Do tính chất phong phú và đa dạng của các đối tượng buôn bán quốc tế, các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động nhập khẩu, cũng như các quy định của nhà nước, nhập khẩu được biểu hiện dưới các hình thức sau:
1.1.2.1. Nhập khẩu tự doanh
Nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu trực tiếp nhập khẩu với danh nghĩa và chi phí của mình, rồi sau đó tiến hành kinh doanh, bán hàng nhập khẩu cho khách hàng trong nước có nhu cầu.
Đặc điểm của nhập khẩu tự doanh:
Hoạt động theo hình thức này thì độ rủi ro và độ mạo hiểm của doanh nghiệp là rất cao do họ tự bỏ mọi chi phí cũng như tự tiến hành tiêu thụ hàng nhập khẩu.
Khối lượng công việc rất lớn. Theo hình thức này, doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, thiết lập phương án kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp quốc gia và quốc tế
Đây là hình thức đem lại lợi nhuận cao nhất do không mất chi phí trung gian
Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương với đối tác nước ngoài khi tiến hành nhập khẩu, còn hợp đồng bán trong nước sau khi hàng về sẽ được lập hoặc không cần lập một hợp đồng nào khác khi bán với hình thức như: bán lẻ hoặc trao tay.
1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn, có nhu cầu nhập khẩu nhưng lại không có quyền tham gia vào các quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp hay xét thấy nhập khẩu trực tiếp không có lợi (bên uỷ thác), đã uỷ thác cho doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương (bên nhận uỷ thác) tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác có nghĩa vụ đàm đán ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản phí gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác:
Theo hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (bên nhận uỷ thác) hoạt động theo danh nghĩa của mình nhưng chi phí của người khác (bên uỷ thác)
Khối lượng công việc được giảm bớt cho các bên. Bên nhận uỷ thác không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch, đàm phán với đối tác nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khi có tranh chấp xảy ra với đối tác nước ngoài.
Doanh nghiệp nhập khẩu phải làm hai hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu với đối tác nước ngoài, một hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác
Lợi nhuận của hoạt đồng nhập khẩu này sẽ bị chia sẻ cho các bên, bên uỷ thác sẽ trả cho bên nhận uỷ thác thông thường là từ 0.5% - 1.5% giá trị hợp đồng.
1.1.2.3. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu vào một nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang nước khác nhằm thu lợi nhuận, nhưng hàng nhập khẩu phải được đảm bảo là không được chế biến tại nước tái xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất:
Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ, bàn bạc với đối tác nhập khẩu và đối tác xuất khẩu, nhằm đảm bảo thu được lợi nhuận.
Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai hợp đồng: một hợp đồng xuất khẩu, một hợp đồng nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng kinh doanh.
Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng, hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền thanh toán phải do doanh nghiệp tái xuất thu từ đối tác nhập khẩu để trả cho đối tác xuất khẩu.
1.1.2.4. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở hợp tác một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất có một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp thế mạnh của các doanh nghiệp để cùng giao dịch nhập khẩu và thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho các bên. Trong đó các bên cùng chia sẻ lợi nhuận.
Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh:
Các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh chịu rủi ro thấp hơn so với nhập khẩu tự doanh vì các doanh nghiệp trong trường hợp này cùng nhau chia sẻ rủi ro và lợi nhuận
Các doanh nghiệp dựa vào tỷ lệ vốn góp cũng như nghĩa vụ và quyền hạn của mình để phân chia lãi lỗ.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia vào liên doanh phỉa lập hai hợp đồng: một hợp đồng mua hàng với nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác.
1.1.2.5. Nhập khẩu đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu theo phương thức buôn bán đối lưu. Trong đó người bán đồng thời là người mua, lấy hàng đổi hàng, giá trị hàng hoá mang trao đổi là tương đương.
Đặc điểm của nhập khẩu đổi hàng:
Theo hình thức này, tiến hành đồng thời cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, do đó có thể thu được lợi nhuận từ hai hoạt động này.
Hoạt động xuất và nhập phải tương đương về mặt giá trị và đối tác xuất khẩu đồng thời cũng là đối tác nhập khẩu.
1.1.2.6. Nhập khẩu đấu thầu
Nhập khẩu đấu thầu là hình thức giao dịch đặc biệt, trong đó doanh nghiệp nhập khẩu đưa ra trước các điều kiện mua bán để các nhà xuất khẩu báo giá cả và các điều kiện kèm theo của mình. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp nhập khẩu có thể lựa chọn được nhà cung cấp phù hợp nhất.
Đặc điểm:
Chỉ có một người mua nhưng nhiều người bán do đó thông qua đấu thầu phát huy được tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và ngươờ mua sẽ có lợi hơn trong việc lựa chọn nhà cung cấp phù hợp nhất cho mình
Tuy nhiên theo hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu tốn thêm công đoạn tổ chức đấu thầu và lựa chọn nhà cung cấp.
1.2. CÁC BƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.2.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là việc đầu tiên mà mỗi doanh nghiệp phải làm khi tham gia vào thị trường. Mục đích của hoạt động này là nhằm xác định nhu cầu của thị trường và khả năng thanh toán trên địa bàn nhất định mà doanh nghiệp dự định kinh doanh.
Kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp những thông tin sát thực nhất về lượng cung và lượng cầu hiện tại cũng như tương lai của thị trường.
Cũng từ kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ có đầy đủ thông tin về loại sản phẩm cần cung ứng, dung lượng thị trường, lượng cung hiện tại, nhu cầu thiếu hụt cần được bổ sung, các đối thủ cạnh tranh…Những thông tin này càng chính xác thì việc lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp sẽ càng sát thực tế và đem lại hiệu quả kinh tế cao
Ngoài việc nghiên cứu thị trường trong nước, nghiên cứu thị trường quốc tế cũng giữ vai trò quan trọng không kém. Hoạt động này cung cấp cho doanh nghiệp thông tin về nguồn hàng nhập khẩu, giá cả của hàng hoá của mỗi nhà cung cấp, chất lượng hàng hoá, chi phí vận chuyển...Nắm bắt tốt thông tin này sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí ở mức tối đa dựa trên sự so sánh chi phí giữa các nhà cung cấp, từ đó tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường nội địa
Công việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp bao gồm:
Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nội địa và các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường
Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá đã lựa chọn và sự biến động của chúng
Nghiên cứu giá hàng hoá nhập khẩu và giá hàng hóa trong nước
Lựa chọn nhà cung cấp
1.2.2. Lập phương án kinh doanh
Phương án kinh doanh trong ngoại thương là một bản giải trình về một thương vụ kinh doanh, các biện pháp thực hiện, các cách đánh giá trên cơ sở một số chỉ tiêu, định lượng cụ thể.
Quy trình lập phương án kinh doanh gồm năm bước:
Đánh giá thị trường và mặt hàng
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ và điều kiện kinh doanh
Đặt ra mục tiêu kinh doanh
Đề ra các biện pháp thực hiện
Phân tích các chỉ tiêu cơ bản
Dựa vào kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp tiến hành lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu một cách chi tiết. Phương án kinh doanh sẽ phải đưa ra được chi tiết về:
Kế hoạch kinh doanh mặt hàng: Trong bước này cần xác định được mặt hàng kinh doanh là mặt hàng gì, nhãn hiệu bao bì đóng gói như thế nào, quy cách phẩm chất của hàng hoá, khối lượng dự định sẽ kinh doanh. Khối lượng hàng kinh doanh của doanh nghiệp cần xác định dựa vào nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường chứ không phải dựa vào nhu cầu thị trường.
Kế hoạch nhập khẩu hàng hóa: Trên cơ sở đã xác định được loại hàng hoá kinh doanh, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, và khối lượng hàng hoá kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải lựa chọn nguồn hàng sao cho doanh nghiệp có thể đạt được nhiều lợi nhuận nhất, chi phí thấp nhất mà vẫn đáp ứng được những yêu cầu đã đặt ra cho hàng hoá. Cần phải lập kế hoạch cụ thể về hình thức nhập khẩu, phương thức chuyển chở, phương thức thanh toán, thời gian ký kết hợp đồng, các điều kiện giao hàng sao cho đảm bảo nguồn hàng được ổn định.
Kế hoạch bán hàng: Trong bước này, doanh nghiệp cần tính toán thật kỹ lưỡng về chi phí kinh doanh bỏ ra cho từng loại mặt hàng, lợi nhuận dự kiến trên từng đơn vị hàng hoá, từ đó sẽ đưa ra một mức giá bán dự kiến cho từng loại hàng, kế đó là tính tổng doanh thu và tổng lợi nhuận có thể đạt được với từng mức giá và mức lợi nhuận dự kiến cho mỗi đơn vị hàng hoá. Tuy nhiên, việc tính toán chi phí kinh doanh và lợi nhuận dự kiến vào giá bán phải dựa vào giá bán hiện tại của hàng hoá trên thị trường để đảm bảo sao cho khi hàng hoá được bán ra thị trường có được mức giá cạnh tranh nhất, hợp lý nhất.
Kế hoạch dự trữ đầu kỳ và cuối kỳ: Đây là khâu rất quan trọng trong việc lập kế hoạch kinh doanh, vì nó là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định, liên tục và đạt hiệu quả cao, thêm đó nó còn giúp doanh nghiệp tăng khả năng chống đỡ với những biến động bất thường của hàng hoá tại cả thị trường cung ứng và thị trường tiêu thụ.
1.2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
Đàm phán trong ngoại thương
Sau khi lập xong phương án kinh doanh, để tiến tới ký kết hợp đồng, bên bán và bên mua phải tiến hành một quá trình giao dịch, thương t