Quản lý ngoại hối là một nhiệm vụ quan trọng của NHNN trong việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ. chính sách quản lý ngoại hối hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong cân bằng cán cân thanh toán, kiểm soát sức mua của đồng tiền,kiềm chế lạm phát, tận dụng nguồn vốn trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát triển nền kinh tế
Cùng với sự biến động của nền kinh tế , chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối đã dần dần thay thế chính sách độc quyền kiểm soát và kinh doanh ngoại hối nhà nước. Cơ chế điều hành tỷ giá cũng được thay đổi căn bản từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát. các công cụ quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối có hiệu quả. Bên cạnh những thành quả đạt được, trong những năm vừa qua, chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn những tồn tại nhất định. Đó là, tỷ giá chưa thật sự phản ánh đúng cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Sự kết hợp giữa chính sách quản lý ngoại hối với các chính sách quản lý vĩ mô đã có nhưng chưa hài hòa.
Để có thể hiểu thêm về hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam trong thời gian qua, trong quá trình học cũng như trong quá trình nghiên cứu viết tiểu luận môn học “Ngân hàng trung ương” em lựa chọn đề tài : “Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam”
48 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài
“Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam”
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý ngoại hối là một nhiệm vụ quan trọng của NHNN trong việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ. chính sách quản lý ngoại hối hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong cân bằng cán cân thanh toán, kiểm soát sức mua của đồng tiền,kiềm chế lạm phát, tận dụng nguồn vốn trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát triển nền kinh tế
Cùng với sự biến động của nền kinh tế , chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối đã dần dần thay thế chính sách độc quyền kiểm soát và kinh doanh ngoại hối nhà nước. Cơ chế điều hành tỷ giá cũng được thay đổi căn bản từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát. các công cụ quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối có hiệu quả. Bên cạnh những thành quả đạt được, trong những năm vừa qua, chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn những tồn tại nhất định. Đó là, tỷ giá chưa thật sự phản ánh đúng cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Sự kết hợp giữa chính sách quản lý ngoại hối với các chính sách quản lý vĩ mô đã có nhưng chưa hài hòa.
Để có thể hiểu thêm về hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam trong thời gian qua, trong quá trình học cũng như trong quá trình nghiên cứu viết tiểu luận môn học “Ngân hàng trung ương” em lựa chọn đề tài : “Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam”
Mặc dù đã được trang bị những kiến thức cơ bản trong môn học “Ngân hàng trung ương”, nhưng với trình độ có hạn cũng như còn nhiều hạn chế trong quá trình nghiên cứu tài liệu chắc chắn bài viết không tránh khỏi thiếu
sót. Nhóm em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
MỤC ĐÍCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
Khái niệm
Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia. Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.
Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, được các nước chấp nhận là đồng tiền quốc tế, ví dụ: đôla Mỹ, bảng Anh, Frăng pháp.
Đối với những nước mà đồng tiền được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là công cụ can thiệp, điều chỉnh nhằm thiết lập thế cân bằng giữa các đồng tiền trong trật tự tiền tệ quốc tế, phục vụ chính sách kinh tế.
Đối với những đồng tiền không được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỉ giá hối đoái của đồng bản tệ.
Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế, NHTW đã được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước và kiểm soát ngoại hối trên
thị trường là phù hợp. ở việt nam vấn đề cập trong Pháp lệnh ngân hàng nhà
nước năm 1990(điều 30), luật NHNN năm 1997(điều 38)quy định: Nhà nước giao cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý ngoại hối.
Quản lý ngoại hối là việc nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hốitheo những mục tiêu đã định.
Mục đích quản lý ngoại hối
Điều tiết tỷ giá, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
NHTW thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ ) vào tay mình, để thông qua đó nhà nước sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước
NHTW không chỉ bảo quản và quản lý quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước mà còn biết sử dụng phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế.
Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Trong cả hai trường hợp cán cân thanh toán bội thu hoặc bội chi, nếu không có sự can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng giảm theo nhu cầu ngoại hối trên thị trường. Tuy nhiên ở nhiều nước, NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mục tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm, thì NHTW hoặc là mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối sẽ tăng lên tương ứng, hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra
nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm xuống tương ứng.
CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
Cơ chế tự do ngoại hối
Theo cơ chế này, ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước.
Cơ chế quản lý
Hiện nay, hầu hết các nước đều áp dụng cơ chế có sự quản lý của nhà nước, song mức độ quản lý và can thiệp có khác nhau.
Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn
Theo cơ chế này, nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thươngvà độc quyền ngoại hối. Nhà nước áp dụng các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả hoạt động ngoại hối vào tay mình. Tỷ giá do nhà nước quy định buộc tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ choc tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗdo tỷ giá thì sẽ được nhà nước cấp bù, ngược lại nếu lãI thì nộp cho nhà nước. Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Cơ chế quản lý có điều tiết
Trong cơ chế quản lý hoàn toàn, nhà nước có thể áp đạt khống chế được thị trường, ngăn chặn được ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động khai thác được nguồn vốn từ bên trong. Nhưng trong nền kinh tế thị trường cách quản lý này sẽ không phù hợp, cản trở và gây khó khăn cho nền kinh tế.
Để khắc phục sự áp đặt, nhà nước tiến hành điều tiết nhưng gắn với thị trường, nhà nước tiến hành kiểm soát ở mộr mức độ nhất định nhằm phát huy tính tích cực của thị trường, hạn chế những nhược điểm do thị trường gây ra, tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển ổn định, ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài.
HOẠT ĐỘNG NGOẠI HỐI CỦA NHTW
Hoạt động mua bán ngoại hối
NHTW tham gia vào hoạt động mua bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp, giám sát, điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua, người bán bán cuối cùng. Thông qua việc mua, bán NHTW thực hiện việc giám sát điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời theo dõi diễn bíên tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với NHTW các nước khác củng cố sức mua đồng tiền này hay đồng tiền khác để đảm bảo trong trật tự quốc tế có lợi cho mình.
Mua bán trên thị trường trong nước
Trên thị trường hối đoái trong nước, NHTW là người mua, bán cuối cùng và chỉ tiến hành mua bán với các ngân hàng thương mại tại hội sở trung ương của các ngân hàng thương mại mà không trực tiếp mua bán với các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái do NHTW công bố. Thông qua việc mua bán NHTW thực hiện việc cung ứng tiền tệ hoặc rút bớt tiền tệ ra khỏi lưu thông, trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ.
Đối với những nước phát triển, thị trường hối đoáI đã được quốc tế hóathì tỷ giá được thả nổi. NHTW chỉ can thiệp khi thị trường có sự biến động lớn hoặc trong những trường hợp đặc biệt.
Mua bán trên thị trường quốc tế
Với nhiệm vụ quản lý quỹ dự trữ ngoại hối,NHTW thực hiện việc mua bán trên thị trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối. NHTW thực hiện việc mua bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền TW (MB) từ đó có thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn.
Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW
Quản lý, điều hành thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, bằng cách đưa ra quy chế ra nhập thành viên, quy chế hoạt động, quy định giới hạn tỷ giá mua bán trên thị trường..
-Tham gia xây dựng các dự án pháp luật, và ban hành các văn bản
-Hướng dẫn thi hành luật quản lý ngoại hối
-Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối
-Kiểm tra giam sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối, kiểm soát các hoạt
động ngoại hối của các tổ chức tín dụng.
-Thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác của quản lý ngoại hối.
-Biên lập cán cân thanh toán
N-ộ
Nội dung cơ bản của quy chế quản lý ngoại hối
Những quy định chung gồm :
Đối tượng và pham vi quản lý tổ chức cá nhân có hoạt động ngoại hối.
Cơ quan quản lý: Chính phủ giao cho ai?, ví dụ: MHTW hoặc thành
lập riêng một cơ quan để giao nhiệm vụ..
Quy định về nội dung quản lý ngoại hối, người cư trú, người không cư trú, các hoạt động ngoại hối.
Quy định về: mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ của người không cư trú và người cư trú.
Quy định về các giao dịch vãng lai
Quy định về giao dịch vốn
Các điều khoản khác.
Các quy định đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động ngoại hối được thực hiện tốt.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NHNN VIỆT NAM TỪ 2009 ĐẾN NAY
Thực trạng hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2009-2011
Ở việt nam trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thời gian dài với chế độ nhà nước nắm độc quyền ngoại thương và ngoại hối. Mọi nguồn thu , chi ngoại tệ đều tập trung vào nhà nước, chỉ có các doanh nghiệp quốc doanh mới được tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa theo một tỷ giá ấn định dẫn đến hiện tượng thu bù chênh lệch ngoại thương. nếu thu> chi thì doanh nghiệp phải nộp nhà nước phần chênh lệch, ngược lại chi >thu thì sẽ được nhà nước bù. Nhà nước trực tiếp can thiệp và xác định tỷ giá nhưng không phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, áp dụng tỷ giá cố định và đa tỷ giá.
Có thể nói, đây là giai đoạn có rất nhiều biến động của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. (Cuối năm 2008, cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất ở Mỹ đã nhanh chóng lan rộng trên phạm vi toàn cầu, gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ hàng trăm năm nay). Lẽ tất yếu, sau một thời kỳ tăng trưởng ấn tượng, đất nước ta cũng đã hứng chịu ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn như: đồng tiền quốc gia bị mất giá, thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng, tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Các chỉ tiêu của nền kinh tế đều xấu đi, tăng trưởng năm 2008 còn 6,23%, trong khi lạm phát kỷ lục ở mức 22,97%. Bước sang giai đoạn 2009 – 2010, nền kinh tế vẫn tiếp tục ở trong tình trạng khó khăn. Sau một thời gian tăng lên và lập mức kỷ lục ở mức 23,9 tỷ USD vào cuối năm 2008, dự trữ ngoại hối quốc gia đã chứng kiến sự sụt giảm nghiêm trọng đến mức báo động trong hai năm này.
Tính đến tháng 6/2009, dự trữ ngoại hối Việt Nam đã giảm xuống còn 17,3 tỷ USD. Đến cuối năm 2009, mức dự trữ chỉ còn 14,1 tỷ USD, giảm 41,7% so với cuối năm 2008. Cùng với sự giảm xuống của dự trữ ngoại hối, chỉ tiêu dự trữ ngoại hối trên giá trị tuần nhập khẩu cũng đã giảm từ 12 xuống chỉ còn 7 tuần, khiến mức dự trữ ngoại hối trở nên đáng lo ngại.
Trong năm 2010, dự trữ ngoại hối tiếp tục ở mức thấp, dao động từ 7 – 9 tuần nhập khẩu. Trong thông báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF vào tháng 12/2010 vừa qua, tổ chức này đã thể hiện sự lo lắng rằng dự trữ ngoại hối Việt Nam đang ở mức thấp, tính đến tháng 9/2010, chỉ tương đương khoảng 1,8 tháng nhập khẩu.
Những con số về dự trữ ngoại hối Việt Nam có sự khác nhau bởi các tổ chức khác nhau. Điều đó cho thấy, công khai dự trữ ngoại hối vẫn là điều mà chúng ta chưa làm được. Cuối năm 2010, theo thông tin từ Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư, mức DTNH Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 10 tỷ USD. Trong khi đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody, DTNH Việt Nam là 12,2 tỷ USD, đáp ứng được 5 – 6 Tuần nhập khẩu. Điều đó thật đáng lo ngại cho bền vững của thị trường ngoại hối nước ta nói riêng cũng như sự ổn định của nền kinh tế nói chung.
Tuy nhiên tới cuối tháng 5/2011, tín hiệu lạc quan cho thấy dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng khoảng 900 triệu USD trong tháng 5 nhờ động thái mua vào của Ngân hàng Nhà nước. Số liệu này được IMF công bố tại Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) được tổ chức tại Hà Tĩnh hồi đầu tháng 6/2011.
Cũng tại Hội nghị nêu trên, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng xác nhận dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng thêm 2 tỷ USD trong vòng 2-3 tháng. “Con số này còn tăng nữa. Đến 2012, dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ đảm bảo 16 tuần nhập khẩu”, Phó thủ tướng khẳng định – hứa hẹn 2012 sẽ là điểm kết thúc của một thời kỳ sụt giảm nghiêm trọng lượng dự trữ ngoại hối của nước ta. Quả thực, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2012, dự trữ ngoại hối Việt Nam đã tăng 20% so với cuối năm 2011 nhờ nỗ lực mua một lượng lớn dự trữ ngoại hối xuất phát từ NHTW nhằm cân đối thị trường, tuy nhiên mức tăng này liệu có duy trì được lâu dài trong khi kinh tế Việt Nam còn có quá nhiều vấn đề khó khăn cần phải đối mặt?
Nguyên nhân gây sụt giảm dự trữ ngoại hối
Tình trạng nhập siêu vẫn chưa được cải thiện
Trong suốt hai năm 2009 và 2010, chúng ta vẫn tiếp tục phải đối mặt với ình trạng nhập siêu.
Năm 2009, mục tiêu ta đặt ra là nhập siêu dưới 10 tỷ và dưới 20% kim ngach xuất khẩu. Nhưng trong thực tế, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm này là 57,1 tỷ USD, xuất khẩu là 69,59 tỷ USD, mức nhập siêu là 12,85 tỷ USD, tương đương với 22,6% kim ngạch xuất khẩu – vượt quá mục tiêu đặt ra. Điểm chú ý là hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều là nguyên vật liệu.
Bước sang năm 2010, tình trạng nhập siêu của Việt Nam đã được cải thiện. Cho tới cuối năm, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 157 tỷ USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, giá trị xuất khẩu đạt 72,19 tỷ USD, tăng 26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là 12,61 tỷ USD, bằng 17,5% kim ngạch xuất khẩu. Hầu hết các mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam đều tăng so với năm 2009. Trong đó, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là nguyên nhiên vật liệu: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu 13,69 tỷ USD, nhóm hàng nguyên liệu phục vụ ngành dêt may nhập 9,8 tỷ USD, xăng dầu nhập 6,1 tỷ USD… Điều đáng chú ý là trong năm 2010, Việt Nam có 6 tháng nhập siêu trên 1 tỷ USD. Mức nhập siêu lớn nhất là tháng 2 với 1,33 tỷ USD và tháng thấp nhất là tháng 8 với 395 triệu USD.
Như vậy, tuy mức nhập siêu năm 2009, 2010 của nước ta có giảm so với năm 2008, tuy nhiên vẫn ở mức cao. Điều đó đã tiếp tục gây sức ép cho dự trữ ngoại hối quốc gia. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, NHNN phải dùng dự trữ ngoại hối, khiến dự trữ ngoại hối giảm đi thay vì được tích lũy. Sự thâm hụt cán cân thương mại kéo dài trong nhiều năm là nguyên nhân chính làm dự trữ ngoại hối sụt giảm (Cụ thể, năm 2009 mức thâm hụt là 1,9 tỷ USD, và năm 2010 lên mức 4 tỷ USD).
Cán cân vốn giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
Giai đoạn này đã chứng kiến sự sụt giảm của cán cân vốn so với giai đoạn trước.
Trước hết là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau một thời gian tăng trưởng ổn định, bước sang năm 2009, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta đã có sự sụt giảm lớn. So với năm 2008, FDI vào Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 30%, đạt 21,48 tỷ USD, trong đó nguồn vốn thực hiện đạt 10 tỷ USD, bang 87%. Trong những năm gần đây, FDI luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cán cân vốn và là nguồn bù đắp ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế. Chính vì thế, sự giảm xuống đáng kể của FDI đã ảnh hưởng đáng kể đến nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế cũng như dự trữ ngoại hối. Sang năm 2010, FDI vào Việt Nam tiếp tục giảm. Nguồn vốn đăng ký đạt 19,58 tỷ USD, bằng 82,2% so với 2 năm trước đó, vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD. Tuy đây là con số đáng khích lệ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế chưa thực sự phục hồi nhưng dễ thấy nguồn cung ngoại tệ này tiếp tục giảm sẽ làm cho việc huy động vào quỹ dự trữ ngoại hối sẽ khó khăn hơn.
Đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII), năm 2009 tiếp tục chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế và động thái rút vốn từ năm 2008 (2 tỷ USD), các nhà đầu tư nước ngoài đã rút khỏi thị trường 230 triệu USD. Dù đây không phải là mức nhiều nhưng cũng có những thời điểm trong năm, vốn rút ra khỏi thị trường đã lên tới 500 – 600 triệu USD. Đặc tính của nguồn vốn này là có thể rút nhanh ra khỏi thị rường. Chính vì thế, chỉ cần một lượng rút vốn không lớn nhưng ồ ạt cũng sẽ tạo nên sự khan hiếm của ngoại tệ trên thị trường và buộc NHNN phải can thiệp dể ổn định. Bước sang năm 2010, dòng vốn này đã có sự tăng trở lại, cả năm 2009, mức đầu tư gián tiếp FII chảy vào ròng 1 tỷ USD.
Sự căng thẳng trên thị trường ngoại hối, NHNN bàn ngoại tệ để can thiệp
Hai năm vừa qua chứng kiến sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá hối đoái, lạm phát tăng cao, đồng nội tệ bị mất giá. Tỷ giá trên thị trường đã liên tục tăng lên và nhiều khi bỏ xa so với tỷ giá chính thức cũng như tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng. Sự tăng lên này đã diễn ra trong năm 2008, được tiếp diễn trong gần cả năm 2009, đầu và cuối năm 2010. Mặc dù có những giai đoạn, tỷ giá trên thị trường đã ổn định, nhưng những giai đoạn căng thẳng lại làm cho tỷ giá USD/VND tăng mạnh.
Sự căng thẳng của tỷ giá tất nhiên đến từ những cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. Ngoài nguyên nhân đến từ tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán dẫn đến thiếu nguồn cung, tăng cầu đối với ngoại tệ, có những nguyên nhân khác dẫn dến tình trạng này. Đó là:
Thứ nhất, tình trạng đói “ đô la hóa của nền kinh tế”.
Với tâm lý sùng bái ngoại tệ từ lâu, người dân vẫn đang tiếp tục nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ. Nhất là mỗi khi có những biến động kinh tế xảy ra như trong những năm vừa qua, tâm lý lo sợ đồng nội tệ mất giá cũng như kỳ vọng kiếm lời do tỷ giá tăng lên càng khiến người dân “ găm giữ” ngoại tệ nhiều hơn. Một trong những nguồn cung ngoại tệ tiềm năng cho nền kinh tế đó là nguồn thu từ kiều hối. Mặc dù có giảm trong năm 2009 vừa qua, đạt 6,3 tỷ USD, nhưng năm 2010, lượng kiều hối chuyển về nước đã tăng đáng kể, đạt 8 tỷ USD. Tuy nhiên, lượng kiều hối được bạn lại cho ngân hàng rất thấp, trung bình chỉ đạt 10%. Người dân có xu hướng nắm giữ hoặc bán trên thị trường tự do đã gây nên hiện tượng mất cân đối cung cầu ngoại tệ, khiến việc kiểm soát thị trường ngoại hối càng khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ. Có hiện tượng nhiều doanh nghiệp vay USD tuy chưa đến kì trả nợ nhưng đã mua săn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của doanh nghiệp khiến cầu ngoại tệ tăng. Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện bị hạn chế nhập khẩu, không được vay hay mua ngoại tệ từ các ngân hàng mà phải chịu thị trường chợ đen, chính vì thế, càng đẩy tỷ giá tự do vượt quá tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng. NHTM không thể đủ ngoại tệ cung ứng, sứ ép lên dự trữ ngoại hối càng lớn.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, mặc dù có nguồn thu ngoại tệ, nhưng các doanh nghiệp này lại không bán cho các NHTM mà có xu hướng nắm giữ để sử dụng khi cần thiết. Điều này cũng bắt nguồn từ những lo ngại việc tỷ giá tăng lên trong tương lai và doanh nghiệp khó tiếp cận USD khi cần.
Thứ hai, sức ép từ giá vàng, giá dầu và lạm phát của nền kinh tế
Trong những năm vừa qua chứng kiến sự tăng liên tục của giá vàng và giá dầu mỏ trên thế giới và tác động đến thị trường trong nước. Đặc biệt có những giai đoạn, giá vàng trong nước đã chênh lệch với giá vàng trong nước 800.000- 1000.000 đồng/lượng đã thúc đẩy hoạt đông kinh doanh chênh lệch giá thu gom USD nhập lậu vàng ở nước ngoài về bán, khiến cho cầu USD tăng mạnh. Thực tế này đã diễn ra vào thời điểm cuối tháng 11/ 2009 , tháng 10/ 2010 và đặc biệt là năm 2011 , ghi nhận mức giá vàng trong nước là 20%, làm cho giá USD tăng vọt. Mặc dù có những thời điểm, chúng ta đã xuất vàng ( tháng 8 và 9/ 2010), nhưng do giá vàng liên tục lập kỉ lục đã gây nên sức ép về cầu USD khi các doanh nghiệp này phải nhập vàng lại phục vụ cho nhu cầu trong nước.