Luận văn Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của bộ luật dân sự 2005 và luật đất đai 2003 giải pháp hoàn thiện

Khái niệm “chuyển nhượng quyền sử dụng đất” không phải là một khái niệm đã có từ lâu đời như khái niệm “mua, bán đất” mà mới xuất hiện khi Luật Đất đai năm 1993 xác lập cho phép hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Một vấn đề đặt ra là tại sao nhà làm luật dùng thuật ngữ “chuyển nhượng quyền sử dụng đất” mà không dùng thuật ngữ “mua, bán quyển sử dụng đất ", hai thuật ngữ này khác nhau như thế nào? Thuật ngữ “chuyển nhượng đất” hoặc “chuyển nhượng ruộng đất” đã được sử dụng song song với thuật ngữ mua bán đất và được đề cập tại các văn bản về quản lý đất đai của nước ta từ trước năm 1993, cụ thể: Mục 9, phần II Thông tư số 55/ĐKTK ngày 05 tháng 11 năm 1981 của Tống cục Quản lý ruộng đất (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) hướng dẫn cách giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp pháp, không hợp lý quy định: “Nói chung, tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất hoặc đất của Hợp tác xã chia cấp không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất từ trước đây thuộc sở hữu tư nhân không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thị thực đều là trái phép. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, kể từ sau ngày 5-3-1975 ban hành nghị định số 01-ND/75 của Chính phủ miền Nam Việt Nam, tất cả mọi việc mua, bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các tư nhân với nhau, dù là có được chính quyền địa phương thị thực, đều là trái phép

pdf19 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4442 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của bộ luật dân sự 2005 và luật đất đai 2003 giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VÀ LUẬT ĐẤT ĐAI 2003GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 2 Khái niệm “chuyển nhượng quyền sử dụng đất” không phải là một khái niệm đã có từ lâu đời như khái niệm “mua, bán đất” mà mới xuất hiện khi Luật Đất đai năm 1993 xác lập cho phép hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Một vấn đề đặt ra là tại sao nhà làm luật dùng thuật ngữ “chuyển nhượng quyền sử dụng đất” mà không dùng thuật ngữ “mua, bán quyển sử dụng đất ", hai thuật ngữ này khác nhau như thế nào? Thuật ngữ “chuyển nhượng đất” hoặc “chuyển nhượng ruộng đất” đã được sử dụng song song với thuật ngữ mua bán đất và được đề cập tại các văn bản về quản lý đất đai của nước ta từ trước năm 1993, cụ thể: Mục 9, phần II Thông tư số 55/ĐKTK ngày 05 tháng 11 năm 1981 của Tống cục Quản lý ruộng đất (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) hướng dẫn cách giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp pháp, không hợp lý quy định: “Nói chung, tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất hoặc đất của Hợp tác xã chia cấp không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất từ trước đây thuộc sở hữu tư nhân không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thị thực đều là trái phép. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, kể từ sau ngày 5-3-1975 ban hành nghị định số 01-ND/75 của Chính phủ miền Nam Việt Nam, tất cả mọi việc mua, bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các tư nhân với nhau, dù là có được chính quyền địa phương thị thực, đều là trái phép. Như vậy, xét về mặt từ ngữ thì chắc chắn có sự khác biệt giữa “chuyển nhượng” và “mua bán”. Theo các nhà ngôn ngữ học định nghĩa thì “nhượng" là một động từ có nghĩa là “nhường, bán hoặc cho”; "nhường" cũng là một động từ có nghĩa là "nhượng, chịu thiệt cho mình đê lợi cho người”. “Chuyển nhượng” nghĩa là “nhường lại, bán lại cho người khác”. "Mua " nghĩa là “trao đổi tiền lấy đồ vật với sự ưng thuận của người bán”, "Bán” nghĩa là "đổi đồ vật của mình và 3 tiền có sự thỏa thuận cả đôi bên . "mua bán ~ nghĩa là “buôn bán mua đồ vật với giá sỉ (buôn) rồi bán lại với giá lẻ để lấy lời". Xét về bản chất kinh tế, “chuyển nhượng” và “mua, bán” có điểm tương đồng thể hiện ở việc một bên chuyển giao tài sản (hoặc quyền sử dụng đất cho bên kia để lấy tiền, tuy nhiên, về mặt pháp lý, chuyển nhượng QSDĐ khác với mua bán đất đai ở một số điểm sau đây: o Chuyển nhượng QSDĐ có đối tượng là chuyển giao quyền sử dụng đất còn mua bán đất có đối tượng là chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. o Chủ thể chuyển nhượng QSDĐ là người sử dụng đất còn chủ thê mua bán đất là chủ sở hữu đất đai. o Hình thức pháp lý của chuyển quyền sử dụng đất là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngoài ra, chúng ta có thể thấy rằng "chuyển nhượng" ít mang ý nghĩa kinh tế, tìm kiếm lợi nhuận, trong nhiều trường hợp thậm chí không có. Còn “mua bán” thì phải có lợi nhuận. Nhà làm luật đã lựa chọn thuật ngữ "chuyển nhượng quyền sử dụng đất” thay vì “mua bán quyền sử dụng đất” để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dần dần theo thời gian, thuật ngữ chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã trở nên phổ biến, đặc biệt là trong các văn bản hành chính Nhà nước và nội hàm của nó cũng biến đổi theo hướng là một khái niệm có tính chất tương tự như “mua ban quyền sử dụng đất”. Khái niệm HĐCNQSDĐ được các nhà làm luật hiện nay quy định như sau: “ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyến nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai" [BLDS 2005, Điều 697] . 4 Như vậy, chuyển nhượng QSDD là một giao dịch do người làm luật đặt ra và giới thiệu với dân cư như là một giải pháp dung hòa giữa ý chí của người làm luật liên quan đến quyền sở hữu đất đai và nguyện vọng của dân cư về việc có các quyền có giá trị tài sản (và giao dịch dược) đối với đất. Các đặc điểm về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Theo quy định tại Điều 689 của BLDS năm 2005 thì HĐCNQSDĐ có hai đặc điểm nổi bật vê hình thức đó là: Thứ nhất, hợp đồng phải được giao kết dưới hình thức bằng văn bản. Việc nhà làm luật quy định “hợp đồng chuyển quyền quyền sử dụng đất phải xác lập thành văn bản” [Điều 689] là hợp lý. Bởi vì, QSDĐ là tài sản có giá trị lớn và khi chuyển nhượng nó làm phát sinh thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với Nhà nước. Các bên chuyển nhượng cần phải có chứng cứ về việc chuyển nhượng. Nhà nước và người thứ ba cần biết về việc chuyển nhượng QSDĐ của các bên để ghi nhận và có những hành vi ứng xử phù hợp. Thứ hai, hợp đồng phải được công chứng, chứng thực theo quy định cửa pháp luật. Đặc điểm này dường như đã trở hành một nguyên tắc được thừa nhận và ăn sâu vào ý thức của người sử dụng đất khi thực hiện các quyền CQSDĐ. Vấn đề đặt ra là, nếu như việc chuyển nhượng QSDĐ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc chuyển nhượng mới hoàn tất, như vậy các bên có cần phải công chứng hoặc chứng thực? Các bên chuyển nhượng chỉ cần cùng nhau đến trước cơ quan quản lý đất đai và nộp đủ các giấy tờ thủ tục theo quy định, trước sự chứng kiến của công chức phụ trách về vấn đề chuyển nhượng và yêu cầu cho phép các bên thực hiện thủ tục chuyển nhượng. Nếu thực hiện được điều này thì có lẽ sẽ giảm bớt được một thủ tục hành chính và đỡ tốn thời gian, tiền bạc. Có vẻ như nhà làm luật ở Việt Nam không đồng ý với quan điểm trên mà lý giải theo hướng: với nền kinh tê thị trường các giao dịch về chuyển nhượng QSDĐ ngày càng gia tăng, 5 số lượng cán bộ công chức làm công tác quản lý đất đai có trình độ pháp lý ít và phải xử lý nhiều công việc chuyển môn trong lĩnh vực quản lý đất đai. Nếu để họ trực tiếp xem xét các hợp đồng chuyển nhượng thì đó sẽ quá tải đối với họ. Việc để một hệ thống cơ quan trung gian có chuyển môn về pháp luật công chứng, chứng thực hợp đồng là cần thiết. Nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đụng đất Theo quy định tại Điều 698 BLDS năm 2005 thì nội dung của HĐCNQSDĐ bao gồm các nội dung sau đây: tên, địa chỉ của các bên, quyền, nghĩa vụ của các bên; loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất; thời hạn sử dụng đất của bên chuyển nhượng, thời hạn sử dụng đất còn lại của bên nhận chuyển nhượng; giá chuyển nhượng, phương thức, thời hạn thanh toán; quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng; các thông tin khác liên quan đến QSDĐ, trách nhiệm cửa các bên khi vi phạm hợp đồng. Mỗi điều khoản trong nội dung hợp đồng có ý nghĩa pháp lý riêng, là cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên, cơ sở giải quyết các tranh chấp về QSDĐ và liên quan đến quan hệ quản lý nhà nước về đất đai, mà trực tiếp là với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương. Những nội dung cần chú ý trong các nội dung chính của HĐCNỌSDĐ bao gồm: Thứ nhất, tên, địa chỉ của các bên tham gia hợp đồng (thông thường còn có thêm thông tin về ngày, tháng, năm, sinh, số chứng minh nhân dân, ngày cấp, nơi cấp,. . .) không chỉ có ý nghĩa đối với các bên trong giao dịch, mà còn tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý theo dõi việc chuyển dịch QSDĐ. Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp về QSDĐ nhưng trên thực tế điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên thường được đặt ở phần cuối của hợp đồng. Thứ ba, trong hợp đồng cần thể hiện rõ các thông tin về loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất. Điều này là quan trọng vì nó 6 giúp xác định rõ đối tượng của hợp đồng, tránh nhầm lẫn với quyền sử dụng các thửa đất khác. Thứ tư, thời hạn sử dụng đất của bên chuyển nhượng, thời hạn sử dụng đất còn lại của bên nhận chuyển nhượng có ý nghĩa đôi với hợp đồng chuyển nhượng các loại đất sử dụng có thời hạn xác định. Đối với các hợp đồng chuyển nhượng đất ở (sử dụng ổn định lâu dài), điều khoản này không được chú trọng. Thứ năm, giá chuyển nhượng QSDĐ là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do hai bên thoả thuận. Giá chuyển nhượng QSDĐ được coi là điều khỏan quan trọng nhất của hợp đồng. Nó biểu thị bằng tiền khả năng khai thác lợi ích do QSDĐ mang lại. Giá chuyển nhượng QSDĐ, vì thế rất khác nhau giữa các vùng, các vị trí của một địa phương. Giá chuyển nhượng QSDĐ, một mặt phản ánh lợi ích của việc khai thác công dụng của đất một mặt phản ánh sự tiện lợi của các cơ sở hạ tầng vị trí thửa đất. Thứ sáu, về phương thức, thời hạn thanh toán. Điều khoản này có ý nghĩa trong việc đảm bảo các quyền của bên chuyển nhượng. Thứ bảy, về quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng. Điều khoản này thường đề cập đến việc tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ về ngõ đi chung, về cho thuê đất trong thời hạn hợp đồng cũ chưa hết hiệu lực . . . Điều khoản này không thể thiếu, nó như một phụ lục cho các quyền và nghĩa vụ của các bên đối với mỗi trường hợp cụ thể. Thứ tám, về các thông tin khác liên quan đến QSDD. Đây là một điều khoản có tính chất dự phòng cho các vấn đề liên quan đến thửa đất. Thứ chín về trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng. Điều khoản này rất có ý nghĩa khi việc thực hiện hợp đồng gặp trục trặc do đó cần thỏa thuận về điều khoản này thật cẩn thận. Các tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 7 Việc chuyển nhượng QSDD nếu tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hình thức, nội dung và đăng ký CQSDĐ theo đúng quy định của pháp luật thì sẽ có hiệu lực pháp luật và không xảy ra tranh chấp. Trong những năm gần đây số vụ tranh chấp về HĐCNQSDĐ chiếm tỷ lệ khá lớn so với tổng số vụ tranh chấp về đất đai (năm 2007: 28,24%; năm 2008: 27,51%; năm 2009: 29,61%) và chiếm tỷ lệ đáng kể so với tổng số vụ tranh chấp về dân sự nói chung (năm 2007: 5,96%; năm 2008: 6,02%; năm 2009: 6,13%) Các tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ xuất phát từ các nguyên nhân sau: - Vi phạm về hình thức và thủ tục của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất: các bên chuyển nhượng QSDĐ không làm đầy đủ thủ tục công chứng, chứng thực theo đúng quy định của pháp luật và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dẫn đến tình trạng một trong các bên yêu cầu tòa án tuyên bố HĐCNQSDĐ vô hiệu. - Vi phạm các nội dung của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Các vi phạm này chủ yếu là: + Các vi phạm về điều kiện đối với QSDĐ được đem chuyển nhượng quy định tại Điều 106 của Luật Đất đai năm 2003; + Vi phạm về điều kiện đối với chủ thể của QSDĐ. Đó là các trường họp người không phải là chủ sử dụng đất lại đem chuyển nhượng QSDĐ của người khác; chủ sử dụng đất không được pháp luật cho phép chuyển nhượng QSDĐ dang sử dụng nhưng lại đem chuyển nhượng. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VÀ LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2003 VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 8 1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Những bất cập cua Bộ luật Dân sự năm 2005 Hiện nay, BLDS năm 2005 đã bỏ một số quy định của BLDS năm 1995 như: trong phần quy định chung về CQSDĐ bỏ quy định về thủ tục CQSDĐ, điều kiện CQSDĐ, hậu quả của việc CQSDĐ, căn cứ chấm dứt QSDĐ; chương HĐCNQSDD của BLDS năm 2005 bỏ quy định về điều kiện chuyển nhượng ỌSDĐ, hình thức chuyển nhượng QSDĐ, điều kiện của người được chuyển nhượng QSDĐ. Việc sửa đổi bổ sung như vậy giúp cho các quy định của BLDS không bị lỗi thời và phải sửa đổi mỗi khi Luật Đất đai sửa đổi. Nhưng điều đó cũng xuất hiện bất cập là các quy định về chuyển nhượng QSDĐ của BLDS chỉ mang tính chung chung, không cụ thể và ít được người dân đem áp dụng mỗi khi chuyển nhượng ỌSDĐ. Khi chuyển nhượng QSDĐ các bên thường tìm đến các quy định của Luật Đất đai, các mẫu HĐCNQSDĐ có sẵn mà không nghiên cứu các nội dung của BLDS. Ngoài ra, các quy định cụ thề của BLDS năm 2005 vê HDCNQSDĐ còn có những bất cập sau: Thứ nhất, không quy định nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước của các bên chuyển nhượng. Tại Điêu 699 và Điều 701 cua BLDS năm 2005 quy định về nghĩa vụ của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng đã không đề cập đến việc các bên có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước như thuế CQSDĐ hoặc thuế thu nhập từ CQSDĐ, lệ phí trước bạ . . . và cũng không có điều khoản nào quy định các bên có thể thỏa thuận về các vấn đề này. Mặc dù, trong các HĐCNQSDĐ trên thực tế vấn đề này rất quan trọng được các bên thỏa thuận kỹ. Có thể, các nhà làm luật đã bỏ đi việc quy định nghĩa vụ nộp thuế chuyển QSDĐ của bên chuyển nhượng QSDĐ để các quy định của BLDS đỡ cứng nhắc hơn và để các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, thiết nghĩ ngoài thuế 9 chuyển quyền còn có rất nhiều loại nghĩa vụ tài chính khác như lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính... có thể phát sinh đối với cả hai bên khi thực hiện việc chuyển nhượng QSDĐ. Do đó, BLDS vẫn phải quy định việc thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước như là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên tham gia quan hệ chuyển nhượng QSDĐ và cho phép các bên được thỏa thuận về việc thực hiện nghĩa vụ này. Thứ hai, quy định cứng nhắc việc bên nhận chuyển nhượng QSDĐ có nghĩa vụ đăng ký QSDĐ. Khoản 2 Điều 701 quy định một trong những nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng là: "đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Nhưng trên thực tế các bên có thể thỏa thuận bên chuyển nhượng hoặc bên nhận chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ này. Mặt khác, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 cũng không có quy định nào cấm bên chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ đăng ký. Thậm chí các văn bán hướng dẫn Luật Đất đai năm 2003 còn quy định: “Tổ chức đầu tư xây dụng nhà ở, công trình xây dựng để bán thay mặt bên nhận chuyển nhượng nộp một (01) bộ hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Sở Tài nguyên và môi trường”[Điều 18]. Thứ ba, thời điểm có hiệu lực của HDCNQSDĐ chưa được quy định rõ ràng dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, người dân bị xử phạt không đúng quy định của pháp luật. HĐCNQSDĐ cỏ hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký QSDĐ. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp trên thực tế sau khi các bên đi công chứng HĐCNỌSDĐ nhưng 10 ngày sau không đi đăng ký việc chuyển nhượng tại văn phòng đăng ký QSDĐ khi thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước đã bị cơ quan thuế phạt do chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính. Và căn cứ của việc xử phạt là dựa vào Điều 32 cửa Luật quản lý thuế năm 2006: thời hạn: địa điểm nộp hồ sơ khai thuế: Chậm nhất là ngày thú mười kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thuế đối với loại thuế khai và nộp theo từng ltần phát sinh nghĩa vụ thuế”. Việc 10 làm này là vi phạm pháp luật đất đai và pháp luật dân sự, và ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích của người dân. Thứ tư, nội dung của BLDS năm 2005 về hình thức chuyển nhượng QSDĐ đã lạc hậu do có sự thay đổi của pháp luật. Điều 689 BLDS năm 2005 quy định về hình thức CQSDĐ phải được thực hiện bằng hợp đồng và phải được công chứng, chứng thực. Như trên đã đề cập, chức năng công chứng hợp đồng đã được chuyển sang cho cơ quan công chứng. Do đó, việc quy định hợp đồng phải được chứng thực sẽ không còn phù hợp trong thời gian tới. Những bất cập của Luật Đất đai năm 2003 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luật Đất đai là luật chuyển ngành quy định việc quản lý và sử dụng đất đai và các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất. Để thấy được những bất cập của BLDS về HĐCNQSDĐ không thể không xem xét những bất cập của Luật Đất đai năm 2003 về chuyển nhượng QSDĐ. Để từ đó thấy được mối quan hệ giữa BLDS và Luật Đất đai và những bất cập của chế định chuyển nhượng QSDĐ trong pháp luật Việt Nam. Sau đây là một sồ bát cập của Luật Đất đai năm 2003 về chuyển nhượng QSDĐ: Thứ nhất: Luật Đất đai có sự trùng lặp với BLDS về hình thức của việc chuyển nhượng QSDĐ. Điều 689 BLDS năm 2005 đã quy định vê hình thức CQSDĐ. Điều 127 Luật Đất đai năm 2003 nhắc lại: Hợp đồng chuyển nhương quyền sứ dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứngg thực của Ủy ban nhân dân xã, phườn, thị trấn nơi có đất”. Pháp luật của một quốc gia là một thể thống nhất, nếu BLDS đã quy định về hình thức của việc chuyển quyền thì Luật Đất đai không cần thiết phải nhắc lại. Thứ hai: Luật Đất đai năm 2003 không quy định cụ thể và đầy các loại giấy tờ trong hồ sơ đăng ký chuyển nhượng QSDĐ. Do đó, khi người dân nộp hồ sơ 11 đăng ký chuyển nhượng QSDĐ, cơ quan thực thi pháp luật bắt họ phải nộp thêm những giấy tờ nằm ngoài quy định của Luật. Thứ ba: pháp luật đất đai hợp pháp hóa cho những trường hợp chuyển nhượng QSDĐ trái pháp luật làm ảnh hưởng đến ý thức của người dân trong việc tuân thủ trình tự thủ tục chuyển nhượng. Dường như từ trước đến nay Nhà nước ta luôn phải chạy theo người dân trong vấn đề công nhận các HĐCNQSDĐ. Khi Luật Đất đai năm 1993 còn hiệu lực thi hành, đường lối xử lý của Nhà nước đối với vấn đề chuyển nhượng QSDĐ trái pháp luật cũng là hợp thức hóa cho người dân. Điều đó được thể hiện tại mục III Công văn sô 1427/CV/ĐC ngày 13 tháng 10 năm 1995 của Tông cục địa chính về việc hướng dẫn xử lý một số vấn đề về đất đai để cấp GCNQSDĐ có quy định việc chuyển nhượng đất trái phép được xử lý như sau: ”Các tổ chứcc đã được Nhà nước giao đất mà tự tiện đem chuyển nhường cho người khác sử dụng thì: truy thu tiền chuyển nhượng đất nộp vào ngân sách Nhà nước, xử phạt hành chính. Ttrường hợp việc chuyển nhượng gây hậu quả nghiêm trọng, lợi dụng việc chuyển nhượng đất để tham ô, tư lợi thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. + Đối với người nhận quyền sử dụng đất nếu thực sự có nhu cầu để làm nhà ở, hoặc để sản xuất kinh doanh mà vị trí khu đất đó phù hợp với quy hoạch thì họ phái làm thủ tục hợp thức hoá. Người nhận đất phải nộp phạt hành chính về hành vi chuyển nhượng đất trái phép,nộp lệ phí địa chính. Sau khi người nhận đất làm đầy đủ nghĩa vụ và thủ tục thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Đối với những khu đất chuyển nhượng không phù họp với quy định, mà quy hoạch đó chưa thực hiện, nếu người nhận đất đã xây dụng các công trình hoặc nhà ở thì họ được tạm thời sử dụng không được xây dựng thêm khi quy hoạch được triển khai thì người đó phải tự dỡ bỏ các công trình nhà ở nói trên. Nếu đất này 12 chưa xây dựng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi và tiến hành giao đất theo quy định của pháp luật. Cá nhân chuyển nhượng đất với nhau để 1àm nhà ở hoặc chuyển nhượng đất để sản xuất nông nghiệp: lâm nghiệp: nuôi trồng thủy sản, làm muối phù hợp với quy hoạch và không có tranh chấp thì được hợp thức hoá để cấp giấy CNQSDĐ nhưng phải nộp phạt hành chính, làm thủ tục trước bạ sang tên, nộp tthuế chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí địa chính. Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ, thu hồi đất, thực hiện QSDĐ, trình tự, thủ tục bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai cũng có hai điều thể hiện nội dung hợp thức hóa cho người dân khi không tuân thủ các quy định vê chuyển nhượng QSDĐ đó là: - Cấp Giấy chứng nhận đối với đất do cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo sử dụng kể cả trường hợp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 (khoản 3 Điều l0). Trong khi đó theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 1993, tổ chức tôn
Luận văn liên quan