Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xó hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ
văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc
dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho sự
lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trỡnh độ phát
triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân
tộc thật sự hỡnh thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thỡ nền văn hóa ấy
không có sức sống thật sự của nó” [9, tr.16].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ
quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác
nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng
có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc
nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một
vùng rộng lớn, có địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, v ăn hóa, xã hội bao gồm rất nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những
nét văn hóa riêng có, đ ộc đáo của mình.
Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở nước
ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một nền văn
hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng
cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho
nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam.
97 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3149 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xó hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ
văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc
dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho sự
lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trỡnh độ phát
triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân
tộc thật sự hỡnh thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thỡ nền văn hóa ấy
không có sức sống thật sự của nó” [9, tr.16].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ
quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác
nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng
có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc
nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một
vùng rộng lớn, có địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm rất nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những
nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình.
Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở nước
ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một nền văn
hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng
cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho
nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa
đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như
tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với
những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền
thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của
dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống
của người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát triển của thời
đại. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao
lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và
người Thái ở Tây Bắc nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ
được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để có
được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để đạt
được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức
quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa,
đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [19, tr.10].
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều
kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện
mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trước tình hình đó thì
việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là vấn đề mang
tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần công sức
nhỏ bé vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Sơn La nói riêng, tôi chọn vấn đề
“Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay " làm đề
tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ khác nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu như:
"Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994.
"Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002. "Xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nguyễn
Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa Thông tin,
2003.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có:
"Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn Lệ, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Văn hóa truyền thống của các dân tộc Jrai và Bahnar ở tỉnh
Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mỹ
Vân, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà Nội."Văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số trong cuộc sống hôm nay", Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
7/2000. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia
Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa...
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình:
“Nghệ thuật trang phục thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1990. "Văn hóa thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 1995. "Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1996."Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học trình bày
tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996), Cầm Trọng.
Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa bản dân tộc Thái Đen, trên cơ sở đó đề
xuất nội dung, giải pháp xây dựng mô hình bản văn hóa", 1999, UBND tỉnh Sơn La. "Vài
nét về người Thái ở Sơn La", Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002. "Hoa
Văn Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003. "Bảo tồn và phát triển văn
hóa truyền thống ở vùng núi Bắc Trung Bộ hiện nay", Cao Văn Thanh (chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên
cứu lịch sử...
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm
chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở nước
ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn
hóa, phong tục tập quán của người Thái (nói chung), người Thái ở Tây Bắc (nói riêng)
nhằm giới thiệu về người Thái; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc
Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Thái nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm
hiểu một số nét văn hóa cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp cho sự phát
triển văn hóa các dân tộc Tây Bắc nhưng cũng chỉ là những giải pháp mang tính định
hướng chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái ở góc
độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, chưa
bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc một
cách khái quát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
trên cơ sở làm rõ thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây
Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La), luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm
kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung, và dân tộc
Thái ở Sơn La nói riêng.
* Nhiệm vụ:
luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái và tính tất yếu khách quan của việc
kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái.
Hai là, đánh giá thực trạng vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái
ở Tây Bắc hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế...khảo sát ở tỉnh Sơn La).
Ba là, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và đề ra một số giải pháp cơ bản, nhằm kế
thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu là văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc (nội dung chủ yếu là văn hóa dân tộc
Thái ở tỉnh Sơn La) trên góc độ triết học.
* Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong
phú...Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Thái ở
Tây Bắc mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị
văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái ở Tây Bắc và ở Sơn La nhằm kế thừa
và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lưý luận là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn
hóa và chính sách phát triển văn hóa, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách,
báo... tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, điều
tra, so sánh... nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Thái ở Tây Bắc; phân
tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Thái dưới góc độ triết học. Qua đó
đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về văn
hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần khẳng định vai trò, ý
nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc theo hướng: Xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
các bộ môn: Triết học, Văn hóa, Dân tộc học... ở các nhà trường, làm tài liệu tham khảo
cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Tây Bắc và tỉnh Sơn La.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy
nó
1.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái
1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái
1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự nhận mình
bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái.
Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống kê năm 1973 là trên 36 vạn
người. Đến năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725 người sống trải khắp vùng
quê miền Tây và Tây Bắc Việt Nam. Bắt đầu từ phía Đông với miền đất người Thái gọi
là mường Lò quê tổ ở Tây Bắc tỉnh Yên Bái (nay chia thành ba huyện thuộc tỉnh Yên
Bái: Văn Chấn, Mù Căng Chải, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ). Sang phía Tây gồm toàn
bộ địa phận ba tỉnh Lai Châu, Điện Biên và Sơn La. Phía Nam người Thái sinh sống ở
miền Tây Bắc Hòa Bình (nay là huyện Đà Bắc và Mai Châu) và miền Tây hai tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An. Cuối cùng còn thấy những nhóm sống rải rác trong các tỉnh thuộc vùng
núi Tây Nguyên, trong đó huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng là nơi họ ở đông hơn cả.
Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt Nam, dân tộc
Thái đã cùng các dân tộc anh em khác, tham gia dựng nước và giữ nước. Đây cũng chính
là quá trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày nay. Hiện nay, chưa có cách nào
khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá lịch sử tộc người Thái, ngoài việc rút ra và đúc kết
những hiểu biết mới về đời sống tâm linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết luận về nguồn
gốc hình thành của dân tộc này.
Người Thái ở Việt Nam không theo một tôn giáo chính thống nào trên thế giới mà
theo một trong những tục có nghi thức thờ Nước (nặm) và Đất gọi là Cạn (bốc). Nước có
biểu tượng Thần chủ là con Rồng (Tô Luông) mang tên chủ nước (chảu nặm), và đất có biểu
tượng thần chủ là loài Chim ở núi mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ
Rồng, Chim cũng là Mẹ, Cha của Mường và tục thờ này nằm trong toàn bộ nghi lễ cúng
mường (xên mương).
Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ Mẹ- Cha gắn với biểu tượng
thần linh Rồng- nước và Chim- cạn trong cúng Mường chéo ngược như sau:
Mường Thái Đen thờ: Mẹ - Rồng - nước > < Cha - Chim - Cạn
Mường Thái Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn > < Cha - Rồng - Nước
Điều này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa biểu tượng cội nguồn giữa người Thái
với truyền thuyết thủy tổ người Việt (Kinh): “Mẹ thủy tổ người Kinh là bà Âu Cơ thuộc
giống Tiên (Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là ông Lạc Long Quân thuộc loài Rồng-
nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con trai, khi
khôn lớn thì năm mươi con trai theo cha xuống biển và năm mươi con trai theo mẹ về
núi” [41, tr. 23]. Từ đây, ta có thể hình dung được bức tranh có thể có về sự hình thành,
và phát triển văn hóa cội nguồn của hai ngành Người thuộc nhóm nói tiếng Thái có liên
hệ với Người Việt (Kinh) trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và phát triển:
Trong khi Mẹ thủy tổ hay thần Mẹ của ngành người Thái Trắng ở cùng
nhóm nữ với bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn thì
Mẹ thủy tổ, hay thần Mẹ của ngành người Thái Đen sẽ ở nhóm Nữ của tập
đoàn người có đại diện nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng
Rồng - nước. Ngược lại, Cha thủy tổ hay thần Cha của ngành người Thái
Trắng cùng nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng Nước
thì Cha của ngành Thái Đen sẽ ở nhóm Nam có đại diện nhóm Nữ là Bà Âu
Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn [69].
Theo các nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của người Thái đã sinh cơ lập nghiệp tại một
vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ trước công nguyên đã
có một phần người Thái cư trú chủ yếu là ở vùng Mường Thanh bây giờ. Sang những thế
kỷ đầu công nguyên, một bộ phận Thái Trắng ở đầu sông Đà, sông Nậm Na đã di cư
xuống phía Nam cư trú ở các huyện phía Bắc như mường Tè, mường Xo (Phong Thổ),
mường Lay, Quỳnh Nhai (Sơn La). Đến thế kỷ thứ XI theo “Quăm Tô Mương” cho rằng:
khởi thủy từ thời đại của anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa ngành Thái Đen xuôi theo
dòng sông Hồng xuất phát từ mường Ôm, mường Ai (Vân Nam, Trung Quốc) đến
mường Lò (Nghĩa Lộ). Sau đó hậu duệ Tạo Xuông, Tạo Ngần đã khai “Mường” lập
“Tạo” tạo ra cả một vùng rộng lớn gồm rất nhiều huyện. Vùng giữa ngày nay: Thuận
Châu (Mường Muổi) thuộc tỉnh Sơn La là thủ phủ của ngành Thái Đen. Cho đến cuối thế
kỷ XIII, người Thái ở Việt Nam đã ổn định về cư trú chủ yếu ở Tây Bắc Việt Nam.
Dân tộc Thái chia thành nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm khác
nhau:
Thái Đen (Táy Đăm): Cư trú chủ yếu ở các tỉnh Sơn La (hầu như toàn tỉnh). Nghĩa
Lộ (mường Lò) thuộc tỉnh Yên Bái; ở tỉnh Điện Biên; Tuần Giáo tỉnh Lai Châu và một số
ở phía Tây Nam tỉnh Lào Cai.
Thái Trắng: (Táy Đón hay Táy Khao) tập trung ở Mường Lay, mường So (Phong
Thổ, Lai Châu); mường Chiến (Quỳnh Nhai); một số khác tự xưng là Thái Trắng nhưng
có nhiều nét giống Thái Đen sống tập trung ở Mường Tấc (Phù Yên), Bắc Yên; mường
Sang, Mộc Châu (Sơn La).
Nhóm Thái Hòa Bình (Mai Châu, Đà Bắc) có nét giống với các nhóm Thái ở
Thanh Hóa. Nhóm Thái ở Thanh Hóa cư trú ở mường Một- mường Đeng tự nhận mình
thuộc ngành Đeng (Tay Thanh), ngành Trắng (Tay Mường- Hàng Tổng, Tay Dọ). Nhóm
Thái Nghệ An với việc chia ngành Đen, Trắng đã mờ nhạt, họ chỉ quan tâm đến thời gian
và quê hương xuất xứ của mình khi đến nơi này.
Lịch sử phát triển của người Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn năm,
nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa lưỡng phân,
lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất.
1.1.1.2. Người Thái ở Tây Bắc
Là dân tộc có số dân khá đông ở miền Tây Bắc, năm 1955 người Thái ở miền Tây Bắc
nước ta mới có 22 vạn người, thì đến năm 1989 riêng người Thái ở tỉnh Sơn La đã có khoảng
40 vạn người, năm 2005 có khoảng 52 vạn người. Có thể thấy rõ điều này khi khảo sát sự
phân bố dân cư của tỉnh Sơn La (phụ lục).
Người Thái ở Tây Bắc là bộ phận tiêu biểu của người Thái. Mặc dù có những đặc
trưng cơ bản, nhưng người Thái ở Tây Bắc vẫn chia hai ngành: Thái Trắng và Thái Đen.
Thái Trắng có thể chia thành hai nhóm địa phương: Nhóm thứ nhất cư trú ở phía
Bắc ở các huyện Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, một phần ở Tuần Giáo (Lai Châu),
Quỳnh Nhai, Sình Hồ, Tủa Chùa và xã Ngọc Chiến thuộc Mường La, Sơn La. Về đại thể,
nhóm này có những đặc trưng văn hóa của một nhóm địa phương thống nhất như: cùng
một vùng thổ ngữ, cùng một loại hình sinh hoạt phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật,
tôn giáo…Nhóm thứ hai, phân bố ở phía Nam trong các huyện Mộc Châu, Phù Yên (Sơn
La) và một phần ở Văn Chấn (Yên Bái). Nhóm này do ảnh hưởng của nhiều luồng văn
hóa khác nhau, nên chỉ có thể thống nhất trên các nét như: Cùng chung một câu chuyện
kể về nguồn gốc của sự thiên di, cùng một phong tục tập quán, một loại hình văn nghệ
dân gian. Riêng về ngôn ngữ, có hai vùng thổ ngữ: Mộc Châu và Phù Yên.
Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần nhất. Hiện
phân bố ở các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái); Mường La, Thuận Châu, Mai
Sơn, Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên. Ngoài ra, còn có một phần phân bố ở các
huyện Phong Thổ, Sình Hồ, Quỳnh Nhai. Một nhóm Thái Đen có hơi khác một số điểm
về tập quán và thổ ngữ, hiện đang cư trú ở huyện Yên Châu nên thường gọi là Thái Yên
Châu.
Sự phân chia hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở miền Tây Bắc hiện nay, là kết
quả của một quá trình thiên di, xáo động trên những diễn biến lịch sử lâu dài và phức tạp.
Cho dù hiện nay có hai ngành Thái, chẳng qua cũng là sự chuyển hóa từ một nhóm Thái
cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người một ngả. Rồi đến địa vực cư trú mới của mình, từng
nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên và chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh
rồi xa dần cái nguyên gốc của mình. Tuy vậy, người Thái ở Tây Bắc vẫn mang trong
mình những nét văn hóa riêng, độc đáo cần được giữ gìn, kế thừa và phát huy.
Sự hình thành nhóm Thái ở Tây Bắc:
Đơn vị cư trú của người Thái được gọi là Bản và Mường. Nhiều bản hợp thành một
mường nhỏ, nhiều mường nhỏ hợp thành một Châu mường. Ngay từ đầu, các bản mường
đã phân bố tương đối đông đúc trên những vùng cư trú của ba nhóm địa phương:
ở phía Bắc- những bản mường của người Thái Trắng tập trung trong các thung lũng
ruộng đồng màu mỡ. Khoảng thế kỷ thứ VIII, Mường Lay dưới thời Lô Lạnh Lạt Ma đã
trở thành trung tâm của vùng này. Lợi dụng sự phát triển của người Thái, quưý tộc thống
trị Mường Lay đã bành trướng thế lực khắp nơi. Phía Bắc phát triển tới giáp tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc). Từ Mường Tè ở phía Đông kéo sang đầu Nặm U (Thượng Lào) ở
phía Tây. Phía Nam phát triển dọc theo sông Đà từ Mường Chiên (Quỳnh Nhai) xuống
đến miền đất thuộc huyện Mường La ngày nay.
Phía Nam, sau đợt thiên di của người Thái Trắng từ Lào s