Quá trình sản xuất kinh doanh trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là một quá 
trình kết hợp và tiêu hao các yếu tố sản xuất để thu hút được sản phẩm. Tổng hợp 
toàn bộ các hao phí mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất kinh 
doanh trong kỳ tạo nên chỉ tiêu chi phí sản xuất. Sự tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bảo đảm tự bù đắp được chi phí đã bỏ 
ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và bảo đảm có lãi hay không. Vì vậy, việc 
hạch toán đầy đủ chính xác, chi phí sản xuất vào giá thành của sản phẩm là việc làm 
cấp thiết, khách quan và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong điều kiện nền kinh 
tế thị trường. Mặt khác, xét trên góc độ vĩ mô, do các yếu tố sản xuất ở nước ta còn 
rất hạn chế nên tiết kiệm chi phí sản xuất đang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của 
công ty quản lý kinh tế.
Nhiệm vụ cơ bản của kế toán là không những phải hạch toán đầy đủ chi phí 
sản xuất, mà còn phải làm thế nào để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện tiết kiệm chi 
phí sản xuất, phục vụ tốt cho việc hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của chế 
độ hạch toán kinh doanh. Đồng thời cung cấp thông tin hữu ích, kịp thời cho việc ra 
quyết định. Để giải quyết được vấn đề đó, phải hoàn thiện công tác kế toán tập hợp 
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Công việc này không những mang ý 
nghĩa về mặt lý luận, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn to lớn cấp bách trong quá trình 
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta nói chung 
và nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Kế 
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty tNHH 
may phú dụ” làm báo cáo chuyên đề tốt nghiệp.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 139 trang
139 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5254 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty tNHH may Phú Dụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LUẬN VĂN: 
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và 
tính giá thành sản phẩm ở Công ty 
tNHH may phú dụ 
Lời mở đầu 
 Quá trình sản xuất kinh doanh trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là một quá 
trình kết hợp và tiêu hao các yếu tố sản xuất để thu hút được sản phẩm. Tổng hợp 
toàn bộ các hao phí mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất kinh 
doanh trong kỳ tạo nên chỉ tiêu chi phí sản xuất. Sự tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bảo đảm tự bù đắp được chi phí đã bỏ 
ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và bảo đảm có lãi hay không. Vì vậy, việc 
hạch toán đầy đủ chính xác, chi phí sản xuất vào giá thành của sản phẩm là việc làm 
cấp thiết, khách quan và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong điều kiện nền kinh 
tế thị trường. Mặt khác, xét trên góc độ vĩ mô, do các yếu tố sản xuất ở nước ta còn 
rất hạn chế nên tiết kiệm chi phí sản xuất đang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của 
công ty quản lý kinh tế. 
Nhiệm vụ cơ bản của kế toán là không những phải hạch toán đầy đủ chi phí 
sản xuất, mà còn phải làm thế nào để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện tiết kiệm chi 
phí sản xuất, phục vụ tốt cho việc hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của chế 
độ hạch toán kinh doanh. Đồng thời cung cấp thông tin hữu ích, kịp thời cho việc ra 
quyết định. Để giải quyết được vấn đề đó, phải hoàn thiện công tác kế toán tập hợp 
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Công việc này không những mang ý 
nghĩa về mặt lý luận, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn to lớn cấp bách trong quá trình 
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta nói chung 
và nói riêng. 
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Kế 
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty tNHH 
may phú dụ” làm báo cáo chuyên đề tốt nghiệp. 
Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 phần 
chính: 
Chương I: Lý luận chung về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và 
tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp. 
Chương II: Thực trạng tổ chức hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành 
sản phẩm ở công ty tNHH May phú dụ 
Chương III: Phương hướng hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản 
xuất, tính giá thành sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản 
xuất kinh doanh tại công ty tNHH May phú dụ 
chương I 
lý luận chung về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 
trong các doanh nghiệp 
I-/ Khái niệm chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 
1-/ Chi phí sản xuất. 
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. 
Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận 
động và tiêu hao các yếu tố cơ bản, tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá 
trình sản xuất là quá trình kết hợp ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động 
và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu 
hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, 
người sản xuất phải bỏ chi phí về lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao 
động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất là tất yếu khách quan, không 
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. 
Trong bất kỳ xã hội nào, khi nền sản xuất hàng hoá còn tồn tại thì chi phí sản 
xuất và giá thành sản phẩm còn đóng vai trò quan trọng và tồn tại khách quan. Để 
tăng cường hiệu lực của công tác quản lý, hoàn thiện kế hoạch hoá, sử dụng thông 
tin hạch toán chi phí sản xuất và giá thành hữu hiệu trong quản trị doanh nghiệp,... 
trước hết, đòi hỏi phải nắm bắt một cách sâu sắc bản chất kinh tế của chi phí sản 
xuất và giá thành sản phẩm. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta phải phân biệt 
được giữa chi phí với chi tiêu và nắm chắc được chức năng thông tin cơ bản của chỉ 
tiêu giá thành. 
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động 
vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ 
nhất định. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài 
sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không 
phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần 
các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích 
gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung 
cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá,...), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi 
cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, cho công tác quản lý,...) và chi tiêu cho quá trình tiêu 
thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo,...). 
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với 
nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. 
Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí 
hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi 
tiêu không những khác nhau về mặt lượng, mà còn khác nhau về thời gian, có 
những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật 
liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này, 
nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi phí 
và chi tiêu trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương 
thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ 
thuật hạch toán của chúng. 
Từ những điều phân tích ở trên cho thấy, thực chất chi phí sản xuất ở các 
doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp (chuyển dịch giá trị của các 
yếu tố sản xuất) vào các đối tượng tính giá nhất định (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), nó 
là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh. 
Có thể đứng trên góc độ khác nhau của người quản lý để phân loại chi phí sản 
xuất (góc độ tài chính, góc độ kế toán, phân tích, góc độ kế hoạch hoá,...). Tuy 
nhiên, ở góc độ nào thì sự phân loại cũng dựa trên một số chỉ tiêu như: đặc điểm 
của chi phí theo ngành kinh doanh, mối liên hệ giữa chi phí và kết quả, yêu cầu 
quản lý của từng ngành, từng đơn vị. Vì thế, các cách phân loại đều tồn tại bổ sung 
cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản 
phẩm. 
Trên góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu 
thức sau: 
* Phân theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế của chi phí sản xuất. 
Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có chung tính chất (nội dung) 
kinh tế được xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm 
nào dùng vào mục đích gì trong sản xuất kinh doanh. Về thực chất, chỉ có ba yếu tố 
chi phí là chi phí về sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tuy vậy, 
để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn, các yếu tố chi phí trên có thể 
được chi tiết theo nội dung kinh tế của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý 
của mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau. 
Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia htành bảy yếu tố: 
- Nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu 
phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại 
trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). 
- Nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ 
số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). 
- Tiền lương và các khoản phụ cấp lương của cán bộ công nhân viên: phản 
ánh tổng số tiền lương phải trả cho toàn bộ cán bộ công nhân viên. 
- Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn 
(KPCĐ) tính theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả 
công nhân viên chức. 
- Khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải 
trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. 
- Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. 
- Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản 
ánh vào các yếu tố trên, dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. 
Cách phân loại này cho biết những chi phí đã chi vào quá trình sản xuất và tỷ 
trọng của từng loại chi phí đó chiếm bao nhiêu trong tổng số chi phí sản xuất của 
doanh nghiệp, làm cơ sở để tập hợp chi phí sản xuất và lập báo cáo chi phí sản xuất 
theo yếu tố. Đồng thời, nó còn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác xây 
dựng và xét duyệt định mức vốn lưu động của doanh nghiệp, trong việc lập và kiểm 
tra việc thực hiện dự toán chi phí sản xuất, đánh giá tình hình quản lý chi phí của 
doanh nghiệp. Phân loại theo cách này, còn là cơ sở để lập và cân đối các kế hoạch 
với nhau, kế hoạch lao động và tiền lương, kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch tài 
sản lưu thông,... là cơ sở tính toán xác định các nhu cầu tiêu hao vật chất cho công 
ty. 
* Phân theo công dụng kế toán của chi phí hay phân theo khoản mục chi 
phí trong giá thành sản phẩm. 
Các phan loại này dựa vào công dụng của chi phí, địa điểm phát sinh của chi 
phí, nơi gánh chịu chi phí và mức độ phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Cũng như, 
cách phân loại theo yếu tố, số lượng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm 
tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi nước, mỗi 
thời kỳ khác nhau. 
Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt 
Nam bao gồm ba khoản mục chi phí: 
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT): là toàn bộ chi phí về nguyên vật 
liệu chính, phụ, nhiên liệu,... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm 
hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. 
- Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): gồm tiền lương, phụ cấp lương và các 
khoản trích theo lương cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ nhất định của 
công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. 
- Chi phí sản xuất chung (SXC): là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân 
xưởng sản xuất, nhưng có tính chất phục vụ chung cho quá trình sản xuất sản phẩm 
(trừ chi phí NVLTT và NCTT). 
Mặc dù, việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí có ý nghĩa rất quan 
trọng, nhưng trong thực tế rất khó tính giá theo yếu tố. Vì, doanh nghiệp sản xuất 
nhiều loại sản phẩm. Nếu tính giá thành theo yếu tố phải tính toán phân bổ nhiều lần 
và như vậy rất phức tạp. Do đó, người ta dùng cách tập hợp những khoản chi phí 
cần phân bổ vào những nhóm riêng có cùng một công dụng kế toán để phân bổ một 
lần. 
Hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu của quá trình hạch toán. Do đó, việc 
phân loại chi phí không chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ cho việc tập hợp chi phí, 
kiểm tra phân tích chi phí, mà nó còn là cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm một 
cách chính xác nhưng lại đơn giản. Do vậy, việc phân loại chi phí theo khoản mục 
người tác dụng kiểm tra tình hình sử dụng chi phí trong phạm vi doanh nghiệp cũng 
như theo từng loại sản phẩm riêng biệt, còn đáp ứng được nhu cầu tính giá thành 
sản phẩm. 
* Phân loại theo lĩnh vực kinh doanh. 
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi 
phí được chia làm ba loại: 
 - Chi phí sản xuất kinh doanh (SXKD) 
 - Chi phí hoạt động tài chính 
 - Chi phí bất thường. 
Cách phân loại này, giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ 
cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng loại hoạt động kinh 
doanh đúng đắn. 
* Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh. 
Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan 
đến việc thực hiện các chức năng, chia chi phí sản xuất kinh doanh làm ba loại: 
- Chi phí sản xuất: gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản 
phẩm trong phạm vi phân xưởng. 
- Chi phí tiêu thụ: gồm tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu 
thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ,... 
- Chi phí quản lý: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những 
chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp. 
Cách phân loại này, là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, xác định trị 
giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như căn cứ để 
kiểm soát và quản lý chi phí. 
* Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí. 
Chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời 
kỳ. 
- Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm và chỉ được 
thu hồi khi có sản phẩm tiêu thụ. Chi phí sản phẩm gồm: chi phí nguyên vật liệu 
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. 
- Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó. Nó 
không phải là một khoản chi phí tạo thành thực tế sản phẩm, mà là khoản chi phí 
hoàn toàn biệt lập với quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí thời kỳ gồm chi phí bán 
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. 
* Phân theo quan hệ của chi phí và khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành. 
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ 
cho việc đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại 
được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Khi đó, chi phí sản 
xuất kinh doanh bao gồm: 
- Chi phí bất biến: là những chi phí không thay đổi về tổng số khi khối lượng 
thay đổi. Nhưng, chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm thay đổi khi số lượng sản 
phẩm thay đổi. 
- Chi phí khả biến: là những chi phí thay đổi khi sản lượng thay đổi, như: chi 
phí nguyên vật liệu chính, chi phí nhân công trực tiếp,... Tuy nhiên, chi phí này tính 
cho một đơn vị sản phẩm lại không thay đổi khi số lượng sản phẩm thay đổi. 
Cách phân loại này, có ý nghĩa rất quan trọng đối với kế toán quản trị trong 
quá trình phân tích tình hình tiết kiệm chi phí, xác định phương hướng nâng cao 
hiệu quả chi phí. 
* Phân theo quan hệ với quá trình sản xuất. 
Chi phí sản xuất bao gồm: 
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí tự bản thân chúng có quan hệ trực tiếp tới 
quá trình sản xuất và có thể chuyển trực tiếp cho sản phẩm hay đối tượng chịu chi 
phí. 
- Chi phí gián tiếp: là những chi phí chung có liên quan đến việc sản xuất 
nhiều loại sản phẩm hay công việc khác nhau. Do vậy, phải phân bổ cho các đối 
tượng có liên quan theo các tiêu thức phân bổ thích hợp. 
Cách phân loại này, có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán và 
phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn và hợp lý. 
* Phân theo khả năng kiểm soát. 
Chi phí sản xuất bao gồm: chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát 
được. Đây là khoản mục chi phí phản ánh phạm vi quyền hạn của các nhà quản trị 
các cấp đối với các chi phí đó. 
Bên cạnh đó, trong quản lý kinh tế, người ta còn sử dụng một số thuật ngữ 
khác như: 
- Chi phí khác biệt: là những chi phí có được do đem so sánh các phương án 
kinh doanh với nhau. 
- Chi phí cơ hội: là khoản chi phí không xuất hiện trên sổ sách kế toán. Đó 
chính là khoản lợi nhuận tiềm tàng bị mất khi chọn phương án kinh doanh khác. 
- Chi phí tới hạn: là khoản chi phí mà doanh nghiệp đầu tư bổ sung để làm 
thêm số sản phẩm ngoài dự kiến. Đây là một chìa khoá để doanh nghiệp quyết định 
số lượng sản phẩm cần sản xuất, tiêu thụ nhằm đạt mục đích tối đa hoặc hạn chế lỗ 
ở mức thấp nhất. 
Như vậy, mỗi cách phân loại chi phí nói trên đều có tác dụng và ý nghĩa riêng. 
Đồng thời, có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác dụng bổ sung cho nhau và nhằm 
mục đích chung là quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Qua các cách 
phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp cho phép xác định một cơ cấu chi phí 
khác nhau và hiểu được cặn kẽ nội dung, tính chất và vị trí của từng loại chi phí 
trong sản xuất, tạo ra sản phẩm. 
Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem 
xét nghiên cứu các cách phân loại này. 
2-/ Giá thành sản phẩm. 
Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động 
sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã 
hoàn thành. 
Như vậy, chi phí và giá thành có thể được xác định trên hai mặt: mặt định tính 
và mặt định lượng. 
- Về mặt định tính: thể hiện các yếu tố vật chất phát sinh và tiêu hao trong quá 
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. 
- Về mặt định lượng: thể hiện mức tiêu hao cụ thể của từng yếu tố vật chất 
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mức tiêu hao này, có thể xác định được dựa 
vào hai nhân tố: khối lượng và giá cả của các yếu tố đã tiêu hao trong kỳ. 
Điều phân tích ở trên cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi mà 
giá cả không ổn định thì việc đánh giá chính xác các khoản chi phí là một điều cần 
thiết và phải được chú trọng. Nó không những xác định đúng chi phí phù hợp với 
giá cả thị trường, bảo đảm cho doanh nghiệp bù đắp được chi phí đã bỏ ra, mà còn 
có điều kiện để thực hiện bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. 
Như vậy, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh 
lượng giá thành của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi 
ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi 
phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi 
hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp, mà không gồm những chi phí phát sinh trong 
kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải 
được phản ánh giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất tiêu thụ 
và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động 
sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá 
thành đều có thể phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu 
quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở 
rộng. 
Vì vậy, việc phân biệt giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có ý nghĩa 
thực tiễn rất lớn ở các doanh nghiệp ứng dụng tính giá thành sản phẩm, dịch vụ. 
3-/ Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí 
sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn 
giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Do đó, chi phí sản xuất và giá 
thành sản phẩm là hai khái niệm riêng có phạm vi và nội dung khác nhau. 
- Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn giá thành 
lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. 
- Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn 
thành, mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm 
hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm 
dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản 
phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. 
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua 
sơ đồ sau: 
CPSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ 
Tổng giá thành sản phẩm CPSX dở dang cuối kỳ 
Hay: Tổng giá;thành;sản phẩm = CPSX;dở dang;đầu kỳ + 
CPSX;phát sinh;trong kỳ - CPSX;dở dang;cuối kỳ 
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ 
bằng nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành 
sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. 
Nhưng, qua tất cả sự phân tích trên cũng cho chúng ta thấy giữa hai khái niệm 
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì, nội 
dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp 
đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, là 
cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Ta có thể nói: 
“Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai b