Cần phải nói ngay rằng kết cấu
trận đồ bát quái vận hành theo luật
âm d-ơng ngũ hành nhịp 1 trong tập
thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm là
cách gọi tên -ớc lệ. ở đây chúng tôi
muốn nói đến "trận đồ bát quái" nh-
một đặc điểm của hình t-ợng cái Tôi
trữ tình. Từ việc phân tích chùm thơ
ngũ hành (Đêm Thổ, Đêm Kim, Đêm
Mộc, Đêm Thuỷ, Đêm Hoả) góp phần
giải mã thế giới nghệ thuật thơ Hoàng
Cầm.
10 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Kết cấu trận đồ bát quái theo luật âm dương ngũ hành "nhịp 1: khấn nguyện" trong tập thơ về kinh bắc của Hoàng Cầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
15
Kết cấu TRậN Đồ BáT QUáI THEO LUậT ÂM DƯƠNG NGũ HàNH
"NHịP 1: KHấN NGUYệN" TRONG TậP THƠ Về KINH BắC
CủA HOàNG CầM
LƯƠNG MINH CHUNg (a)
Tóm tắt. Kết cấu trận đồ bát quái theo luật âm d−ơng ngũ hành "nhịp 1: Khấn nguyện"
trong tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm đ−ợc xem nh− một thế giới hình t−ợng mà ít
ng−ời nói tới. Bằng việc phân tích chùm thơ (Đêm Thổ, Đêm Kim, Đêm Mộc, Đêm Thuỷ,
Đêm Hoả), bài viết góp phần lí giải những đặc điểm của kết cấu hình t−ợng cái Tôi trữ
tình trong mối quan hệ với: vũ trụ, nhân sinh, kiếp ng−ời và quê h−ơng Kinh Bắc. Qua đó
rút ra một số đặc điểm thi pháp thơ Hoàng Cầm.
Cần phải nói ngay rằng kết cấu
trận đồ bát quái vận hành theo luật
âm d−ơng ngũ hành nhịp 1 trong tập
thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm là
cách gọi tên −ớc lệ. ở đây chúng tôi
muốn nói đến "trận đồ bát quái" nh−
một đặc điểm của hình t−ợng cái Tôi
trữ tình. Từ việc phân tích chùm thơ
ngũ hành (Đêm Thổ, Đêm Kim, Đêm
Mộc, Đêm Thuỷ, Đêm Hoả) góp phần
giải mã thế giới nghệ thuật thơ Hoàng
Cầm.
1. Giới thuyết chung về cấu trúc
tập thơ Về Kinh Bắc và chùm thơ
đêm ngũ hành
Tr−ớc khi đi vào tìm hiểu đặc điểm
kết cấu trận đồ bát quái, xin nói qua
về cấu trúc tập thơ Về Kinh Bắc và
chùm thơ “nhịp 1: Khấn nguyện”. Tập
thơ Về Kinh Bắc đ−ợc Hoàng Cầm viết
trong 5 tháng (cuối 1959 - đầu 1960)
với 48 bài thơ và số phận của nó có
một lịch trình không đơn giản. Năm
1990 mới chỉ có vỏn vẹn 1/6 số bài thơ
(8/48 bài) đ−ợc rút lẻ ra và đ−a vào tập
thơ M−a Thuận Thành (NXB Văn hóa,
Hà Nội, 1990). Theo Lại Nguyên Ân “vào
những năm 70 - 80 đã có không ít văn
bản chép tay và chuyền tay trong giới
ng−ời yêu thơ và cả những ng−ời có phận
sự …tò mò (…) khiến tác phẩm nằm
trong trạng thái nhiều hơn một dị bản”.
Năm 2002, nhân dịp nhà thơ 80 tuổi, bộ
sách Tác phẩm của Hoàng Cầm ra đời
gồm ba quyển: quyển một: Thơ; quyển
hai: Truyện thơ; quyển ba: Văn xuôi, do
nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân biên
soạn, Hoàng Cầm và gia đình cung cấp
t− liệu, Hội Nhà văn và Trung tâm Văn
hóa Ngôn ngữ Đông Tây tổ chức xuất
bản. Đây là bộ sách đầu tiên tập hợp đầy
đủ, hệ thống các sáng tác của Tác giả và
là văn bản đáng tin cậy nhất để chúng
tôi làm cơ sở nghiên cứu kết cấu thế giới
nghệ thuật thơ Hoàng Cầm.
Điều dễ nhận thấy là tập thơ Về Kinh
Bắc đ−ợc Thi nhân nhuận sắc và sắp xếp
Nhận bài ngày 28/11/2006. Sửa chữa xong 15/12/2006.
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
16
theo tám nhịp nh−: nhịp 1 Khấn
nguyện, nhịp 2 Kiếp tr−ớc, nhịp 3 Rũ
bụi gia phả, nhịp 4 Rồi cùng đi tất cả,
nhịp 5 Còn em, nhịp 6 Điểm trang, nhịp
7 Rồi lại đi, nhịp cuối Về với ta. Chùm
thơ đêm ngũ hành thuộc “nhịp 1: Khấn
nguyện" gồm các bài thơ: Đêm Thổ,
Đêm Kim, Đêm Mộc, Đêm Thuỷ, Đêm
Hoả. Theo quy luật âm d−ơng ngũ
hành, trật tự ngũ hành phải sắp xếp
nh− sau: Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
Nh−ng một điều thú vị là ở nhịp 1, tác
giả đã vinh danh đ−a Thổ lên vị trí mở
đầu. Nếu xét theo t− duy triết học
ph−ơng Đông, trật tự này là ch−a phù
hợp. Tuy nhiên, theo quy luật biện
chứng của tâm hồn thì sự sắp xếp nh−
trên là có hạt nhân hợp lí của nó, bởi
văn là ng−ời và mỗi con ng−ời là một
tiểu vũ trụ. Nguyên tắc kết cấu nh− vậy
đã làm sống dậy một thế giới hình
t−ợng, một chiều sâu t− t−ởng thẩm mĩ,
một tâm thức trong truyền thống cộng
đồng, và tạo nên những hệ giá trị nghệ
thuật vững bền cho cấu tứ Về Kinh Bắc.
Điều này chúng tôi sẽ trình bày ở phần
sau.
Nét khác lạ của tập thơ Về Kinh Bắc
là một kiểu kết cấu đ−ợc cấu trúc thành
quy luật phổ biến của “trận đồ bát quái”
nh−: đêm ngũ hành (Đêm Thổ, Đêm
Kim, Đêm Mộc, Đêm Thủy, Đêm Hỏa),
“ngũ vị thi” (Cây Tam Cúc; Lá Diêu
Bông; Quả V−ờn ổi; Cỏ Bồng Thi; N−ớc
Sông Th−ơng), “tứ t−ợng thi” (Nắng phù
sa; Gió lông ngỗng; S−ơng Cầu Lim;
Khói Yên Thế). Kiểu kết cấu này đã góp
phần tạo thành những lớp sóng ngôn từ,
những ký hiệu “siêu thơ” phản chiếu
đến độ sâu thẳm nhất các trạng huống
trong tâm hồn con ng−ời. Kết cấu trận
đồ bát quái trong “nhịp 1: Khấn
nguyện” là một thế giới hình t−ợng
“chợt âm chợt d−ơng” của: kiếp tr−ớc và
kiếp này, đi tất cả và về với ta, rũ bụi
gia phả và điểm trang... Đó là sự vận
hành bên trong của hình t−ợng cái Tôi
trữ tình “lung linh giữa mơ và thực, là
cõi lên đồng âm thanh, là ph−ờng bát
âm chữ nghĩa, là cơn cuồng phong lịch
sử loạn mầu trong từ tr−ờng đồng thiếp,
những dân ca, phong tục, truyền
thuyết… Hiện tại nhập hồn quá khứ gọi
nhau trong những vũ điệu bất th−ờng
hoang dại” [1].
2. Hình t−ợng cái Tôi - Con trữ
tình nh− một chỗ dựa căn bản, một
nguyên tắc kết cấu để tổ chức thế
giới nghệ thuật “trận đồ bát quái”
Điều độc đáo là ở câu mở đầu các bài
thơ đêm ngũ hành đều bắt đầu gieo
bằng quẻ "trở về Kinh Bắc" nh−: Cúi lạy
Mẹ con trở về Kinh Bắc (Đêm Thổ), Về
Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
(Đêm Kim), Về Kinh Bắc phải đâu con
hé miệng (Đêm Mộc), Về Kinh Bắc phải
đâu con nhắm mắt (Đêm Thuỷ), Về
Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa (Đêm
Hoả). Tuy nhiên sự biến hoá của mỗi
"hào" có những nét nối liền và đứt gãy
khác nhau tạo thành tiếng sét ầm vang
và những "nỗi niềm tinh vân" (chữ dùng
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
17
của Huy Cận) nhờ sự vận hành và
chuyển hoá của kết cấu trận đồ bát quái
mà tứ thơ trong đêm ngũ hành có dịp
đ−ợc "khải thị" lung linh trong lòng cái
Tôi - Con trữ tình. Cái Tôi - Con ấy theo
điệp khúc "trở về" với Mẹ - Quê h−ơng
để "tự liếm lành vết nội th−ơng" [4, tr.
57] sau vụ Nhân văn giai phẩm (1958).
2.1. Trở lại trật tự chùm thơ theo quy
luật ngũ hành và việc tác giả đặt Đêm
Thổ ở vị trí mở đầu cho nhịp 1 "khấn
nguyện". Có phải sự sắp của tác giả trái
với quy luật ngũ hành hay không? Việc
sắp xếp nhan đề theo cấu trúc ấy là có lí
do của nó. Bởi bất cứ ng−ời Việt Nam
nào khi nói đến Quê h−ơng cũng phải
nghĩ đến mảnh đất mà mình chôn rau
cắt rốn, là nơi hội tụ những tình cảm
thiêng liêng và cao quý nh− tình cảm
gia đình, họ tộc và tình nghĩa xóm làng.
Cũng nh− chiếc lá dù xanh tốt đến đâu
cũng có ngày phải rụng về cội. Vì thế
khi phản ánh mối quan hệ của con
ng−ời và đất mẹ, thi ca đã viết nên
những hình ảnh cảm động nhất, chẳng
hạn “Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn năm
trời/ Kết nạp Đảng bỗng quay về quê
mẹ/ Có phải quê h−ơng gọi ta về đấy
nhỉ/ Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm”
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ - Chế Lan
Viên) hoặc "Nay yêu quê h−ơng vì trong
từng nấm đất/ Có một phần x−ơng thịt
của em tôi" (Quê h−ơng - Giang Nam),
hay hình ảnh Mẹ Tơm "Sống trong cát,
chết vùi trong cát/ Những trái tim nh−
ngọc sáng ngời"(Mẹ Tơm - Tố Hữu).
Kinh Thánh có câu "Thân cát bụi lại trở
về cát bụi". Về Kinh Bắc "Đêm Thổ" là
trở về với mảnh đất có một thế giới của
tuổi ấu thơ, tìm lại hạnh phúc êm đềm
trong thời gian. Nơi ấy có những buổi
"chiều x−a", những "Thân cau cụt vẫy
đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn
khiêng nắng sang sông". Những hình
ảnh, những giá trị văn hoá vật chất và
tinh thần của vùng đất địa linh ấy cứ
hiện về nh−: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi, Pháp Điện (Phật Mây, Phật M−a,
Phật Sấm, Phật Chớp) tạo thành không
gian tâm linh của làng xã Việt Nam cổ
truyền "Đê m−ời tám khúc Văn Giang/
Chuông bách môn đổ xô gò má/Mây
thành thổi lửa/ Nẻo Đông Triều khép
mở gió kỳ lân/ Chớp rạch dáng tiên vén
xiêm xoã ngủ thoắt chìm". Đêm Thổ là
đêm huyền thoại, ở đó có "Gấu đẩy đá
Thiên Thai". Tuy nhiên, tất cả đang
biến chuyển, đổi màu "Tràng mày xếch
vòng cung bắn nát chiều mai ráng
đỏ/Châu chấu ma vờn cổ yếm xây" và
thế giới tâm hồn đang vận hành sang
một chu kỳ mới của một đêm khác -
Đêm Kim. Về Kinh Bắc trong h− vô và
trống trải, không gặp lại tri âm, cái còn
và cái mất cứ lẫn lộn đan xen "không
gặp ng−ời quen hờ ngõ cũ/Đêm xuống
làm lầu hoang". Hình t−ợng Đêm Thổ -
đêm cô tịch, cô đơn vò võ "Trò chuyện gì
ai đâu" và cô liêu nh− "Mồ tháng giêng
−ớt sũng". Qua hình t−ợng nấm mồ -
nấm đất chôn một kiếp ng−ời, tác giả đã
đ−a chúng ta đến một triết lý về sự
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
18
sống và cái chết của đời ng−ời trên
mảnh đất Quê h−ơng. Nếu Chế Lan
Viên một thời muốn gọi hồn Chiêm quốc
trong Điêu tàn, thì có thể ví Hoàng
Cầm là ng−ời con tha ph−ơng đã cao tay
gọi hồn Quê h−ơng bằng “chiếc xe thơ”
Về Kinh Bắc. Tác giả gọi Mẹ và Quê
h−ơng bằng vẻ đẹp âm nhu của quẻ
Khôn, bởi “khôn t−ợng tr−ng cho đất,
cho bà mẹ (…) và đất lớn và bà mẹ đều
có đức tính hóa dục, chịu nhận, bao
dung” [2, tr. 69]. Vì thế những khúc "ca
dao sáo diều chiều lịm tím l−ng trâu" ở
không trung vọng về nh− "nhạc điệu
tâm hồn"(chữ dùng của Hoàng Ngọc
Hiến) xoáy sâu vào tâm trạng cái Tôi -
Con trữ tình biết bao xót xa, tủi buồn,
cứ da diết, r−ng r−ng khi tìm về lời ru
cũ. Hình ảnh "B−ởi Nga My sao mẹ bắt
đèo bòng" là hình ảnh t−ợng tr−ng của
thứ quả mang vị ngọt đ−ợc chắt ra từ
đất mẹ "Thổ". Có lẽ b−ởi Nga My không
có h−ơng vị lạ giống nh− b−ởi Đoan
Hùng (Phú Thọ), Phúc Trạch (Hà Tĩnh),
hay b−ởi Năm Roi Nam Bộ nh−ng
h−ơng vị của nó rất đậm đà nh− hình
ảnh ng−ời mẹ hiền vẫn suốt đời địu đứa
con xa. Địa danh Nga My gợi ta liên
t−ởng đến ngọn núi ở tỉnh Cam Túc
Trung Quốc nơi từng là đề tài, là cảm
hứng vô tận, là nỗi nhớ quê h−ơng dầm
dề của rất nhiều thi nhân nh− Lý Bạch,
Đỗ Phủ, Thôi Hiệu khi viết những dòng
Đ−ờng thi tuyệt bút. Tìm về Kinh Bắc
là tìm về với cỏ cây muôn đời kết trái để
đ−ợc hút những “vị màu” bổ d−ỡng từ
mạch n−ớc quê h−ơng. Và những tình
cảm trinh nguyên ấy cứ đeo đẳng suốt
đời, không phai, không nhạt. Đêm Mộc
gợi lên một mối tình chung thuỷ với quê
h−ơng, đất n−ớc, là tình đất, tình ng−ời
và một nỗi nhớ nhung đau đáu đến thắt
lòng.
2.2. Đọc Đêm Kim - một đêm chiến
tranh "Giặc bên sông đã cắm cờ hạ
trại", ta thấy hình ảnh một cái Tôi -
Con trữ tình luôn khắc khoải, lo âu,
luôn h−ớng lòng mình về phía ấy - quê
nhà "Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn
khóc/ Con không c−ời/ Con thoảng nhớ
thoảng quên". Những hình ảnh biểu
tr−ng trong Đêm Kim luôn biết nói, nó
gợi cho ng−ời đọc nghĩ suy về số phận
mong manh của Nàng thơ và tình yêu
cái Đẹp. Là những số phận "Hình nhân
má điệp mực tàu/ Mắt nghiêng dựa
liếp" phải nay mai chịu cực hình "nhảy
vào đám lửa giỗ đầu". Là những làn da
nõn nà phải tàn phai theo quy luật
khắc nghiệt của thời gian "Da trứng bóc
phủ bụi tàn nhang", hay là những âm
thanh mang dự cảm chia lìa, vang vọng
trong không gian "Phía đông kéo c−a xẻ
gỗ/ Phía tây chầy nện ván thiên". Hình
t−ợng những con ng−ời trong Đêm Kim
cũng hết sức tiều tuỵ, tội nghiệp, căng
thẳng và bất an, một số phận tuổi già sờ
soạng trong đêm "Ông phó may già
m−ời đêm chẳng ngủ rủ xô gai biển
động tìm kim". Ông nh− nàng Lidơ (Bầy
chim thiên nga - Anđecxen) cứ thao
thức trắng đêm để may áo cứu những
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
19
ng−ời ruột thịt của mình ra khỏi bàn
tay ác nghiệt của tử thần. Trong đêm
ấy, có một âm thanh đứt đoạn của khúc
nhạc buồn "kèn già lam ai tập thổi" hay
hình ảnh những liền chị, liền anh "Năm
ba gã trai tập bài l−u thuỷ" và tiếng
khóc trong đêm thanh tĩnh của một em
bé mới lọt lòng "Một trẻ sơ sinh đuổi
giọng mèo hoang qua miếu m−a phùn".
Hình t−ợng nhân dân trong thơ Hoàng
Cầm d−ờng nh− là hình ảnh của những
con ng−ời chịu nhiều đau th−ơng, oan
khốc nh−ng vẫn đẹp đẽ lạ th−ờng.
Trong những hình ảnh đó phải kể đến
hình t−ợng ng−ời mẹ "Mẹ đón con rung
gậy mía Đ−ờng Trèo". Hình t−ợng ng−ời
Mẹ hiền mà b−ớc chân nh− những gót
sen dạo khắp trong thơ ông “rung” rung
gậy mía nh− cầm một bảo vật văn hoá
gia truyền, vừa mang nét đẹp nhân văn,
vừa là nhịp cầu thiêng liêng mà mẹ
"nhẹ nhàng đ−a lối" cái Tôi - Con trở về
với cội nguồn.
2.3. Về Kinh Bắc trong Đêm Mộc là
tìm về với mảnh v−ờn quê sum suê, nơi
ấy có vị "khế chua" đầu mùa làm nhớ
thèm đến chảy n−ớc miếng và đó mới là
“h−ơng vị” của Kinh Bắc quê h−ơng. Về
quê - một cuộc hành h−ơng đắm chìm
trong không gian cổ tích, chợt giật mình
vì "Tràng pháo rùng thân cau mới bói"
nh−ng lòng vẫn nhẹ nhàng, phơi phới
“Tênh tênh chở đá Ba Vì". Về quê để
đ−ợc nằm trên mảnh chiếu "Cói thanh
ép mỏng", "ngủ lại giấc mơ dang dở" để
làm con tằm cựa quậy trong cái kén
tình duyên của "Chũm cau căng đứt
mạch tằm".
Một hình ảnh biểu tr−ng trong Đêm
Mộc rất cảm động dễ khiến ng−ời đọc
phải rơi n−ớc mắt đó là hình ảnh chiếc
dải yếm nâu sồng của mẹ. Đây không
phải là yếm thắm lụa đào trong ca dao
trữ tình mà là hình ảnh "yếm may ba
ngày mẹ lại vá" khiến ta nghĩ đến tấm
áo vá trăm mảnh của ng−ời mẹ nghèo
năm x−a. Qua thời gian, những mảnh
vá cứ dày thêm, và cứ mỗi lần áo rách,
tình cảm của cái Tôi - Con nh− bị một
nhát dao tàn nhẫn cắt sâu vào x−ơng
thịt của mình. Mỗi lần điệp khúc “mẹ
lại vá” lặp lại là một giọt n−ớc mắt tâm
hồn rơi xuống −ớt trang thơ. Tấm áo ấy
cứ rách tả tơi sau “ba ngày” bán mặt
cho đất, bán l−ng cho trời. Nếu hình
ảnh dải yếm một thời đ−ợc may bằng
vải Tô Châu làm ta trăn trở và căm
ghét cảnh chiến tranh thì hình ảnh dải
yếm rách trong thơ Hoàng Cầm gợi lại
một thời mà số phận luẩn quẩn của con
ng−ời bị cái nghèo đeo đuổi. Hình t−ợng
ng−ời Mẹ hiền với bàn tay cần mẫn,
chắt chiu vá lành dải yếm vào những
canh khuya "buồng động bóng đêm
rằm" là một tứ thơ nhiều vỉa tầng mang
hơi văn Cung oán ngâm của Nguyễn
Gia Thiều nh− "cái đêm hôm đó đêm
gì". Đằng sau dáng vẻ bề ngoài lam lũ,
rách r−ới là một vẻ đẹp lồ lộ của tâm
hồn thanh tao và diễm ảo, đó là một vẻ
đẹp "đồng hiện cùng ánh sáng”
[3,tr.190]. Nếu bài thơ Đêm Kim kết
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
20
thúc bằng hình ảnh "giặc bên sông đã
cắm cờ hạ trại" thì bài thơ Đêm Mộc lại
kết thúc bằng hình ảnh "Súng g−ơm
dao rậm rịch". Ta thấy vẫn có một cái
Tôi - Con trở mình thao thức viết những
dòng trĩu nặng cảm xúc với Quê h−ơng
trong những đêm chập chờn không ngủ,
lắng nghe tiếng vo ve của "muỗi ngủ
mê" trong “khoảng lặng” của tâm hồn.
Trong lòng cái Tôi - Con trữ tình luôn
th−ờng trực một tình yêu quê h−ơng
đến cháy lòng, bỏng rát, một tình cảm
lãng mạn cách mạng nồng cháy, ăn sâu
vào tiềm thức, vào máu thịt và nhức
nhối trong tim ng−ời thi sĩ tha ph−ơng.
2.4. Nếu Về Kinh Bắc trong Đêm Thổ
là về với mảnh v−ờn quê thì Về Kinh
Bắc trong Đêm Thuỷ là về với mảnh
v−ờn tình "Về Kinh Bắc phải đâu con
nhắm mắt/Gài mảnh g−ơng giàn thiên
lý đợi tua rua" Trong không gian v−ờn
tình, tác giả đ−ợc hít thở thứ h−ơng trời
nồng nàn của giàn thiên lý, đ−ợc ngắm
sao trời trong không gian cô tịch của
triết lý Phật giáo. Nh−ng những hình
ảnh đó chỉ là cái cớ xúc tác để tác giả
gửi gắm những khát khao thầm kín của
hoài niệm phồn thực từ thuở hồng
hoang, thuở ấy mẹ Man N−ơng ngủ
quên bị những "b−ớc chân" của s− cha
Khâu - đà - la b−ớc qua mình. Vì thế
"Chùa Phật tích ruỗi trong màn lụa
bạch" trinh nguyên, thanh khiết cũng
bị nhìn đẫm cái libido "T−ợng Quan Âm
má ửng bồ quân" hay "Chuông chiều cởi
yếm/Chuông sớm đội khăn/Câu kinh tê
tê m−ời ngón tay măng". Trong không
gian đó, có tiếng chuông chùa văng
vẳng của mùa Hạ nh− tiếng kêu oan từ
nỗi lòng con quốc quốc "Mõ đêm hè quốc
lội/Ao m−a dằng rịt lá tr−ờng sinh". Đó
là hình ảnh ngọn gió đêm hè thổi vào
"trăm cửa", ngọn gió siêu hình nh− một
ng−ời thi sĩ đa tình biết lối ra, ngõ vào
mê cung tình yêu làm "xanh quan lục"
(ngũ hành) - một sắc màu t−ơi trẻ,
t−ơng sinh. Đó là một cõi riêng cho con
ong hút mật đời thanh sạch, rũ bỏ bụi
trần "Ong bay vai áo tiểu thon mình".
Thế giới đó con ng−ời sống với nhau
bằng lòng trắc ẩn, không sát sinh,
không làm trái lẽ đời. Bởi thế "Thập
điện Diêm V−ơng mở hội trong mắt trẻ
lên năm", cõi âm d−ờng nh− tan biến,
và không gian cô tịch của đình chùa cổ
kính không còn vẻ khô khan mà là sự
sống rất con ng−ời đang diễn ra ở chốn
thôn ổ. Đó là hình ảnh "Tr−a hè gãy rắc
cành hoa đại/Mái hậu cung bồ các tha
rơm" xây tổ ấm chuẩn bị cho một cuộc
sống vợ chồng hay "Liếu điếu vỗ hoa
xoan lả tả/Lụa nâu sồng nén nghẹn búp
thanh xuân". Đấy chẳng phải là gì khác
mà là một khát vọng sống, khát khao
luyến ái mà màu u tối của chiếc áo tu
hành không giấu nổi sự tr−ờng sinh
trong cơ thể con ng−ời. Tác giả đã thổi
hồn vào vạn vật khiến cho không gian
sinh tồn vốn dĩ phẳng lặng muốn nổ
tung ra, muốn thoát khỏi những giáo lí
kiềm toả của nhà Phật để đạt tới một
thứ tôn giáo vĩnh hằng - tôn giáo của
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
21
tình yêu, "mà tình yêu nổi bật ở chất
nhục dục" [5, tr. 493]. Hoàng thi sĩ đã
thả hồn mình vào giấc mộng uyên −ơng
hồ điệp trên một thứ "kinh" tụng riêng
cho tình yêu của riêng mình "Tờ kinh
đắp mặt ru b−ơm b−ớm/Chuối chín cây
đổ gục đứt dây bìm". Cái Tôi - Hoàng
Cầm đang ráng mình "v−ợt cạn" một
cách phi th−ờng để khai sinh ra những
hình t−ợng thơ ngũ hành từ “bờ mê”,
“bến lú”. Những hình ảnh thơ mang
tính chất kỳ bí, kỳ diệu nh− những mã
số bí ẩn của t− duy nghệ thuật. Điều
này có thể lí giải khi cái Tôi ấy m−ợn
văn ch−ơng để giải toả những năng
l−ợng dồn nén bên trong của chính
mình. Nhà thơ đứng trong v−ờn trần
nh−ng vẫn mang một giấc mộng hồ
điệp, dẫn dụ ng−ời đọc bằng cách hoá
mình thành "b−ơm b−ớm" bay trong
Đêm Thuỷ về v−ờn trần, đánh đ−ờng
tìm h−ơng, "tìm hoa" ở muôn nẻo quê
h−ơng Kinh Bắc. Có lẽ vì thế mà trong
thơ Hoàng Cầm, cái Tôi ấy luôn bị ám
ảnh nh− "cái bóng" nhân tình in trên
bức vách trong huyền thoại Ng−ời con
gái Nam X−ơng. Cái bóng ấy cứ đổ
xuống làm oan khốc cái Tôi - Con. Ta
thấy Hoàng Cầm vừa là nạn nhân vừa
là tội nhân của tình yêu bị nung nấu bởi
một thứ lửa "Men đá vàng". Đọc Đêm
Thuỷ ta thấy có một cảm quan hiện
thực bên cạnh cảm quan tôn giáo. Thi
nhân không chỉ cảm nhận cuộc sống
đơn thuần ở dáng vẻ bề ngoài mà còn
cảm nhận nó trong chiều sâu nội tâm
con ng−ời. Tôn giáo chẳng phải là gì
khác mà chỉ là sự hoá thân của nhận
thức con ng−ời trong lịch sử, trong trận
đồ bát quái đó có hai thành tố âm -
d−ơng luôn mâu thuẫn, đấu tranh với
nhau lại luôn chuyển hoá vào nhau.
Vận dụng quy luật đó vào lý giải các
trạng thái của nội tâm con ng−ời thì
đây chẳng phải cái gì khác là quy luật
đấu tranh của chính mình, tìm lại
mình, thấy bóng dáng mình trong từng
tấc đất Quê h−ơng. Trên hành trình mà
"Đ−ờng về thu tr−ớc xa lăm lắm/Mà kẻ
đi về chỉ một tôi" (Chế Lan Viên). Vì thế
cái Tôi - Con ấy muốn n−ơng vào Kinh
Bắc để giữ gìn những gì còn sót lại qua
Đêm Thuỷ trôi chảy nh− chính đời
ng−ời.
2.5. Đêm Hoả là bài thơ cuối khép lại
nhịp một, là cuộc sống đời th−ờng mà ở
cõi đi về đó tác giả đ−ợc sống lại tuổi ấu
thơ, đ−ợc trở thành con kiến tha mồi
trong bầy đàn "Về Kinh Bắc tìm chơi
đàn kiến lửa", đ−ợc xe tơ từ "sợi chỉ
nâu". Đêm Hoả là đỉnh cao của sự giao
hoà hai thế giới âm - d−ơng, của mối
t−ơng giao Trời - Đất và Ng−ời. Trong
không gian diệu vợi "Mây nồi rang úp
chụp đỉnh đầu" (trời - d−ơng), "Giun
đất thòng mỏ con gà trụi" (đất - âm).
Con ng−ời trong không gian đó có một
nơi lý t−ởng để mắc võng nơi "v−ờn
hồng", chạc ổi, thả hồn mình ở chốn
d−ơng gian. Tác giả vận dụng hai ý thơ
trong truyện Kiều "…buông mành…
Con Oanh học nói" gợi nhớ đến hình
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007
22
ảnh những ng−ời phụ nữ trong thời
trung đại "Xăm xăm băng lối v−ờn
khuya một mình" dám liều mình chạy
theo tiếng gọi của tình yêu mà không sợ
“chông gai”. Hình t−ợng ng−ời mẹ,
ng−ời vợ thôn quê đời th−ờng chịu
th−ơng, chịu khó "xách giỏ cua đồng"
trong mùa đại hạn "mãi dỗ con" trong
cảnh nghèo túng bần hàn "Chiều cơm
suông/ Năm ngón tay lằn mông trẻ
nhỏ". Đêm Hoả - “Đêm sa mạc” [1] thiêu
đốt những