Luận văn Khảo sát một số loại tinh dầu của cây ngò (Coriandrum sativum L)

Hiện nay trên thếgiới, con người ngày càng quan tâm đến những vấn đềcó liên quan đến sức khỏe, đặc biệt là vấn đềthực phẩm sạch sẽvà ngon miệng. Đó cũng là những ưu điểm của tinh dầu. Ngoài ra tinh dầu còn góp phần quan trọng trong nhiều lãnh vực khác nhưy học, nông nghiệp, mỹphẩm Một đặc điểm quan trọng, không thểthay thế, của tinh dầu so với các hợp chất hữu cơtổng hợp khác là nó không gây hại môi trường và dễphân hủy. Do có những công dụng thực tiễn quan trọng nên ngày càng có nhiều nghiên cứu cũng nhưkhai thác vềtinh dầu trên toàn thếgiới.[14] Ởnước ta, điều kiện thiên nhiên ưu đãi, thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các loài thực vật, trong đó cây tinh dầu là một nguồn nguyên liệu đa dạng và vịtrí của nó ngày càng được khẳng định. Ngò là loại rau gia vị, rau ăn phổbiến, là nguồn thuốc quý, tinh dầu của chúng có nhiều ứng dụng quan trọng trong công nghiệp hương liệu, thực phẩm, dược liệu, Tại những nước vùng ven Địa Trung Hải, Trung Á, Ấn Độ, Trung Quốc, người ta trồng ngò quy mô đểlấy hột (trái chín) làm thuốc và chưng cất tinh dầu dùng trong công nghiệp nước hoa. Bên cạnh đó, tinh dầu hột ngò đã được nghiên cứu làm chất phụ gia an toàn thực phẩm sửdụng trong bia, rượu, kẹo. Cây ngò được trồng khá phổbiến ởViệt Nam nhưng chủyếu lấy lá làm gia vị, hột chủyếu làm hột giống, đôi khi dùng làm thuốc chữa bệnh. [11], [31] Nhằm đưa ra những kết quảban đầu góp phần nâng cao hiệu quảkhai thác và ứng dụng của cây ngò, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tinh dầu lá, thân và hột của cây ngò.

pdf33 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3113 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát một số loại tinh dầu của cây ngò (Coriandrum sativum L), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-2- Chương 1 - TỔNG QUAN 1.1. Đại cương về họ hoa tán Họ Hoa tán hay họ Cà rốt theo tiếng Latin là Umbelliferae hay Apiaceae là một họ của các loài thực vật thường là có mùi thơm với các thân cây rỗng, bao gồm các cây như mùi tây, cà rốt, thì là và các loài cây tương tự khác. Nó là một họ lớn với khoảng 430-440 giống và trên 3.700 loài đã biết. Tên gọi ban đầu Umbelliferae có nguồn gốc từ sự nở hoa trong dạng "tán" kép. Các hoa nhỏ là đồng tâm với 5 đài hoa nhỏ, 5 cánh hoa và 5 nhị hoa.[47] Họ này có một số loài có độc tính cao, chẳng hạn như cây độc cần, là loài cây đã được sử dụng để hành hình Socrates và cũng được sử dụng để tẩm độc các đầu mũi tên. Nhưng họ này cũng chứa nhiều loại cây có ích lợi cao cho con người như cà rốt, mùi tây, thì là….[47] Các cây thuộc họ này được phân bố khắp nơi, một số loài tập trung trong vùng ôn đới, có đời sống bán niên hoặc nhất niên, chiều cao thay đổi từ vài cm đến vài m. Hầu hết chúng được dùng làm hương liệu, sản xuất tinh dầu dùng trong thực phẩm, hương liệu, dược phẩm…[14] 1.2. Giới thiệu về ngò 1.2.1. Danh pháp Tên thường gọi : ngò ta, rau mai, mùi, ngò, ngò rí, ngổ, ngổ thơm, nguyên tuy, hương tuy.[8], [9], [11] Ngò còn được gọi là hồ tuy. Hồ là tên gọi của Trung Quốc cổ dành cho các nước khu vực Trung Á và Ấn Độ; và tuy là ngọn và lá tản mát. Xưa kia Chương Khiên người Trung Quốc đi sứ nước Hồ mang giống cây này về có lá thưa thớt tản mát.[11] Tên gọi của ngò trong các ngôn ngữ châu Âu là từ tiếng Latin “coriandrum”, tên này lại có gốc từ tiếng Hy Lạp, John Chadwick ghi chú rằng cách viết theo tiếng Hy Lạp vùng Mycenae - koriadnon "rất giống với tên người con gái Ariadna của thần Minos, và từ đó được viết thành koriannon hay koriandron.[48] -3- Tên gọi ngò ở một số nước trên thế giới được trình bày ở bảng 1.1. Bảng 1.1. Tên gọi ngò ở một số nước trên thế giới [6], [18], [51] Nước Tên gọi A rập Kuzbara, Kuzbura Ac-mê-ni Chamem Trung Quốc Yuan sui, hu sui, hsiang tsai, yen-sui, yuen sai, yuin si tsoi (leaves) Séc Koriandr Đan Mạch Koriander Hà Lan Koriander Anh Coriander, Collender, Chinese parsley Ê-ti-ô-pi Dembilal Pháp Coriandre, Persil arabe Đức Koriander, Wanzendill, Schwindelkorn Hy Lạp Koriannon, korion Ấn Độ Dhania, Dhanya Hung-ga-ri Coriander Ý Coriandolo Nhật Koendoro Mã Lai Ketumbar Ba Tư Geshnes Ba Lan Kolendra Bồ Đào Nha Coentro Ru-ma-ni Coriándru Nga Koriandr, Koljandra, Kišnec, Kinza, Vonjučee zel’e, Klopovnik Tây Ban Nha Coriandro, Cilantro, Cilandrio, Culantro Thụy Sĩ Chrapfechörnli, Böbberli, Rügelikümmi Thổ Nhĩ Kỳ Kişniş Thái Phắc hom pẻn leo Brunây nannambin (leaves), nannamzee (seed) Indonesia Ketumbar Lào phak hom pom Tên khoa học : Coriandrum sativum L. Trái ngò loại lớn Trái ngò loại nhỏ Ngò đang ra hoa Hình 1.1. Một vài hình ảnh ngò theo tài liệu [53] -4- 1.2.2. Phân loại [46], [48] Giới (Kingdom) Plantae – Plants (Thực vật) Giới phụ (Subkingdom) Tracheobionta – Vascular plants (Thực vật có mạch) Trên ngành (Superdivision) Spermatophyta – Seed plants (Thực vật có hột) Ngành (Division) Magnoliophyta – Flowering plants (Thực vật có hoa) Lớp (Class) Magnoliopsida – Dicotyledons (Thực vật hai lá mầm) Lớp phụ (Subclass) Rosidae Bộ (Order) Apiales Họ (Family) Apiaceae – Carrot family Giống (Genus) Coriandrum L. – coriander Loài (Species) Coriandrum sativum L. – coriander Coriandrum sativum L. được chia thành hai loại, căn cứ vào kích cỡ của trái ngò: − Coriandrum sativum L. var. microcarpum DC : loại trái nhỏ có đường kính 1.5- 3 mm. − Coriandrum sativum L. var. vulgare Alef. : loại trái lớn có đường kính 3-5 mm. [29], [39], [32], [41] 1.2.3. Đặc điểm thực vật [2], [15] Cây thảo, sống hàng năm, cao 0.5-1 m. Thân mọc thẳng đứng, có khía rãnh, phân nhánh ở gần ngọn. Lá có nhiều dạng : lá gốc có cuống dài 2-4 cm và bẹ ngắn, hình trứng rộng, đơn hoặc chia thùy không rõ, dài 1-1.5cm, rộng 0.5-0.8 cm, khía răng sâu; lá ở thân phía dưới chia thùy sâu hình chân vịt có răng nông và to; lá ở giữa thân xẻ 2-3 lần hình lông chim, càng lên trên, phiến càng hẹp dần; lá ở ngọn không cuống, các thùy hình sợi nhỏ. Cụm hoa gồm 3-5 tán kép gần đều mọc ở ngọn thân hoặc kẽ lá; không có tổng bao hoặc chỉ có 1-2 lá bắc; tiểu bao cũng chỉ có vài lá bắc nhỏ; mỗi tán có 6-12 hoa màu trắng hoặc hơi hồng; dài có răng không đều; tràng có những cánh phía ngoài không bằng nhau; bầu có vòi ngắn. -5- Trái bế đôi, hình cầu, nhẵn bóng, có cạnh lồi không rõ, gồm hai nửa (phân liệt trái), mỗi nửa có bốn sống thẳng và hai sống chung cho cả hai nửa. 1.2.4. Phân bố, sinh thái Cây mọc hoang ở vùng Địa Trung Hải và được trồng từ lâu đời trên thế giới. Hiện nay được trồng phổ biến ở Ấn Độ, Việt Nam, nhiều nước ở Trung Á và ven Địa Trung Hải.[3], [4] Ở nước ta, cây ngò được trồng khắp nơi để làm gia vị và làm thuốc.[5], [6], [12] Tại nhiều nước vùng ven Địa Trung Hải, Trung Á, Trung Quốc, Ấn Độ, cây ngò được trồng đại quy mô để lấy trái làm thuốc và cất tinh dầu dùng trong công nghiệp nước hoa.[11] Cây ưa ẩm và ưa sáng, trồng ở các tỉnh phía Bắc thường trùng với thời gian có nền nhiệt độ thấp trong năm, trung bình 15-20oC, lượng mưa cũng thấp, nhưng độ ẩm không khí tương đối cao (trên 80%). Ở các tỉnh phía Nam và một số nước Đông Nam Á khác, cây ngò thích nghi với khí hậu nhiệt đới điển hình, có thể trồng được ở mùa khô, khi nhiệt độ không khí lên đến 30oC. Cây ra hoa trái nhiều; sau khi trái già, toàn cây tàn lụi. Năng lực nảy mầm của trái giảm dần theo thời gian.[2] 1.2.5. Trồng trọt và thu hái Cây được trồng bằng hột vào mùa thu – đông. Có thể gieo liên tiếp nhiều đợt từ tháng 7 đến tháng 11. Cây ngò tương đối dễ tính, dễ trồng, chúng có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau, trừ những chân đất bị nhiễm phèn hay bị nhiễm mặn nhiều. Tuy nhiên, muốn cây sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao thì nên trồng trên những loại đất tơi xốp, có hàm lượng mùn và dinh dưỡng cao. Ở các tỉnh phía Nam có thể trồng được quanh năm, nhưng tốt nhất là nên trồng vào cuối mùa mưa, đầu mùa khô (khoảng tháng 10 đến tháng 2 năm sau).[52] Cần chọn đất tơi xốp, không chua, thoát nước. Nếu trồng lấy trái thì đất phải thoáng, dãi nắng. Đất sau khi làm nhỏ, lên thành luống cao 20-25 cm, rộng 1-1.2 m, -6- tưới 300 l/ha nước giải nguyên chất hoặc nước phân chuồng. Trái ngâm nước trong 20- 30 giờ, sau đó gieo vãi trên luống, lấp đất bột dày 1cm, dùng rơm rạ phủ kín, tưới thật đều. Mỗi hecta cần gieo 12 kg trái. Sau khi gieo 10-15 ngày, trái bắt đầu nảy mầm, tiến hành dỡ bỏ rơm rạ phủ, nhặt sạch cỏ, tưới nước đạm (2%). Cả tháng đầu, tưới 5-6 lần với 100 kg đạm/ha hoặc nước giải. Cây ngò không có sâu bệnh gì đáng kể. Sau khi mọc khoảng 1 tháng là có thể tỉa dần rau đem bán. Nếu lấy trái thì nhổ tỉa rau ăn dần, để lại cây với khoảng cách 20x20 cm, tưới thêm một đợt nước phân lợn và nhổ sạch cỏ. Khoảng 2 tháng, cây ngò ra hoa. 10 tuần, cây ngò có trái. Sau khi gieo khoảng 3 tháng, có thể thu trái. Trái ngò cần được thu hái vào lúc chín tới để tránh rơi rụng. Cắt cả tán đem về phơi trên nong, nia, đập lấy trái rồi tiếp tục phơi thật khô, bảo quản trong lọ kín nơi khô ráo. Nếu làm giống thì trước khi gieo lựa lấy trái mẩy. Mỗi hecta có thể thu được 6-8 tạ trái.[2], [6], [11], [52] 1.2.6. Công dụng 1.2.6.1. Công dụng của phần trên mặt đất Rau ngò vị cay, tính ấm, vào phế, vị, có tác dụng phát tán, làm cho sởi mọc, tiêu đờm trệ, gây trung tiện, dễ tiêu hóa, kích thích. [5], [6] Để chữa bệnh sởi, giúp sởi mau mọc, ngoài việc dùng trái ngò, còn có thể dùng 10-20 g lá hoặc cả cây ngò tươi dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu. Ở Peru, người ta dùng lá ngò giã nát ngửi chữa chảy máu cam, đắp trên trán chữa chứng say leo núi. Ở Angiêri, nước hãm phần trên mặt đất của rau ngò trị chứng nuốt hơi.[2] Rau mùi là loại thuốc chủ yếu trị đậu sởi. Trẻ em lên sởi, nhân gặp gió lạnh, sởi không mọc được, dùng rau mùi một nắm sắc cho trẻ uống lúc còn nóng, đắp chăn cho ra mồ hôi, sởi sẽ mọc tiếp. Bên ngoài, có thể dùng một nắm lá mùi tươi, giã nát, chưng nóng, hoặc một nắm trái mùi khô giã dập, chế thêm tí rượu vào, chưng nóng, gói vải thưa lại, xát cho trẻ từ đầu xuống chân, sởi sẽ mọc đều và khỏi biến chứng.[3], [4], [6] -7- Chữa sau khi ăn, bụng đau lâm râm, bí đầy không tiêu, buồn nôn : rau mùi một nắm, vỏ quýt 8-10 g sắc uống.[6] 1.2.6.2. Công dụng của trái Ngò được trồng quy mô lớn để lấy trái làm thuốc và cất lấy tinh dầu trong công nghiệp làm nước hoa. Trái ngò sấy khô được chế biến thành gia vị trong ẩm thực nhiều quốc gia. Trái ngò còn là một vị thuốc được dùng trong y học cổ truyền và y học hiện đại. Y học hiện đại dùng trái ngò làm thuốc gây trung tiện, làm dễ tiêu. Trong y học cổ truyền, trái ngò được dùng chữa cảm hàn, ho sốt, nhức đầu. Ngày 4-10 g dạng thuốc sắc. Để chữa bệnh sởi, giúp sởi mau mọc, lấy trái ngò giã nát ngâm rượu, xoa hoặc phun khắp mình rồi trùm chăn. Để chữa bệnh gan thận hư hàn, di tinh, xuất tinh sớm, dùng trái ngò sao thơm, giã dập pha trà uống. Trái ngò còn được dùng làm thuốc giúp sự tiêu hóa, chữa ho, lợi sữa. Trong y học cổ truyền Ấn Độ, trái ngò được dùng để làm mất mùi khó chịu của những thuốc khác và khắc phục tính chất gây đau bụng quặn của đại hoàng và phan tả diệp. Nó được nhai để chữa hơi thở hôi và được coi là có tác dụng làm giảm tính chất gây độc của rượu. Trái ngò còn có trong thành phần bài thuốc cổ truyền trị bệnh tim. Ở Trung Quốc, trái và toàn cây ngò chữa bệnh sởi, trong trường hợp sởi không mọc được, dùng trái ngò tươi 160 g, cho nước sôi vào đun sôi trong thời gian ngắn, chờ đến khi nước ấm, dùng xát vào thân thể và tay chân. Hoặc dùng trái ngò 12 g, sắc uống. Trái ngò còn có tác dụng chữa đau dạ dày, ăn không tiêu, với liều 6-12 g. Ở Trung Quốc và Arập Xêút theo kinh nghiệm dân gian dùng hột mùi để làm thuốc ngừa thai.[15] Ở Indonesia, trái ngò được dùng làm gia vị trong nấu ăn, làm thuốc uống để chữa ho, bệnh phong, đau ngực, khó tiêu, và được cho vào mũ tử cung mà các bà mẹ đặt 4-11 ngày sau khi sinh con.[2] Ở Guatemala, trái ngò là thuốc điều kinh và lợi tiểu theo kinh nghiệm dân gian. -8- Ở Angiêri, thuốc ngâm hoặc bột trái ngò uống để trị nhức đầu. Chữa giun kim : hột ngò tán nhỏ, trộn với trứng gà luộc chế thêm ít dầu vừng, giã nhuyễn làm viên thỏi, nhét vào hậu môn lúc buổi tối và để suốt đêm, làm liền 3 đêm thì có kết quả.[6] Trái ngò có trong thành phần của chế phẩm thuốc Livomyn dùng ở Ấn Độ và được bào chế từ 19 dược liệu để chống nhiễm độc gan. Trái ngò là thuốc gây trung tiện, làm dễ tiêu, chống buồn bực, làm mát, kích thích tình dục và lợi tiểu mạnh trong thực nghiệm trên động vật. Trái ngò còn có tác dụng hạ đường máu trên chuột cống và chuột nhắt trắng gây đái tháo đường thực nghiệm.[2] 1987, Mansooc S. Alsaid và cộng sự thuộc trung tâm nghiên cứu dược Arập Xêút đã nghiên cứu dịch chiết nước trái mùi tươi về tác dụng chống thụ thai trên chuột cái về các mặt như ảnh hưởng lên chu kỳ động dục, chống trứng làm tổ, gây sẩy thai, khả năng sinh quái thai và nồng độ progesteron trong huyết thanh. Kết quả cho thấy hột mùi có tác dụng chống trứng làm tổ tốt, không có phản ứng phụ, không ảnh hưởng đến hệ con cái sinh ra.[15] 1.3. Tinh dầu ngò 1.3.1. Trạng thái Trong thiên nhiên, tinh dầu ngò ở trạng thái tự do, chúng hiện diện sẵn trong các cơ quan thực vật. Tinh dầu ngò thu được từ những phương pháp ly trích được xem là một hỗn hợp thiên nhiên có mùi, trong suốt, không màu hoặc màu vàng, tồn tại ở trạng thái lỏng ở nhiệt độ thường, dễ bay hơi nhưng không bị phân hủy. [31] 1.3.2. Giá trị kinh tế Ngày nay, dược phẩm có nguồn gốc thảo dược rất được quan tâm bởi độ an toàn cao khi sử dụng. Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy khả năng kháng vi sinh vật của tinh dầu ngò, nhất là tinh dầu lá của cây ngò. [33] -9- Tinh dầu hột của cây ngò là một trong những loại tinh dầu chiến lược trên thế giới, được sử dụng trong công nghiệp hóa mỹ phẩm, dược, thực phẩm, thuốc lá. Uớc lượng giá trị hàng năm trên toàn thế giới là 50 tỉ đô la Mỹ. [31] 1.4. Những nghiên cứu về tinh dầu ngò Khái niệm chung Trái ngò chín đem phơi hay sấy khô (the dried fully ripe fruits) thường gọi nhầm là hột ngò (seeds).[31] Ở cây ngò, tinh dầu phân bố trên toàn cây, mỗi bộ phận của cây đều có chứa tinh dầu và thành phần hóa học của các tinh dầu này đều khác nhau. Do đó, tinh dầu được tách ra từ các bộ phận của cây đều có tên gọi riêng : + Cilantro hay Coriander leaf oil : tinh dầu lá ngò.[31], [42], [51] + Coriander hay Coriander seed oil, Coriander fruit oil : tinh dầu hột ngò.[31], [34], [35], [42]. + Coriander herb oil : tinh dầu phần trên mặt đất của cây ngò. + Coriander root oil : tinh dầu rễ ngò. 1.4.1. Tinh dầu phần trên mặt đất của ngò Phần trên mặt đất của ngò bao gồm tất cả bộ phận của cây sau khi cắt bỏ phần rễ. Chúng tôi gọi tắt là rau ngò. 1.4.1.1. Hàm lượng tinh dầu − 1895 Schimmel và cộng sự đã công bố tinh dầu rau ngò ở các giai đoạn phát triển của cây như sau : [30] + Cây tươi đang ra hoa chứa 0.12% tinh dầu. + Cây tươi trưởng thành với trái xanh chứa 0.17% tinh dầu. − 1936, Carlblom nghiên cứu tinh dầu rau ngò được chưng cất từ cây ngò đang ra hoa ở vùng Saratov (Nga). Hiệu suất tinh dầu là 0.1%.[30] -10- 1.4.1.2. Tính chất hóa lý − 1895, Schimmel và cộng sự công bố tính chất vật lý tinh dầu rau ngò của : + Cây đang ra hoa : 1515d 0.853 (sau 2,5 tháng là 0.856), 18Dα +1o2’. + Cây có trái xanh : 1515d 0.866 (sau 1 tháng là 0.869), 18Dα +7o10’. [30] − 1936, Carlblom công bố tính chất hóa lý của tinh dầu rau ngò được chưng cất từ cây ngò đang ra hoa ở vùng Saratov (Nga) : [30] + 2020d : 0.8524 + Dα : +2o33’ + 20Dn : 1.4555 + Chỉ số acid : 1.85 + Không tan trong etanol 70% − 1942, công ty Fritzsche Brothers đã nghiên cứu tính chất hóa lý của tinh dầu rau ngò thu được từ cây ngò trưởng thành với trái xanh ở vùng Fremont của Ohio và vùng Geneva của Ấn Độ. Kết quả như sau : [30] Bảng 1.2. Tính chất hóa lý tinh dầu rau ngò có trái xanh ở Ohio và Ấn Độ Tính chất vật lý Ohio Ấn Độ Tỷ trọng (25oC) 0.849 0.849 Góc quay cực +3o25’ +2o1’ Chỉ số khúc xạ (20oC) 1.4540 1.4548 Chỉ số savon hóa 22.8 50.1 Độ tan (25oC) Tan trong 3.5 thể tích etanol 70%, có màu trắng đục trong 10 thể tích Tan trong 1-1.5 thể tích etanol 80% 1.4.1.3. Thành phần hóa học − 1936, Carblom công bố tinh dầu rau ngò thu được từ cây ngò đang ra hoa ở vùng Saratov (Nga) chứa 95% aldehid gồm có n-decanal (khoảng 10%), 2- decenal, 8-metil-2-nonenal.[16], [30], [36] Ngoài ra còn có mircen, Carblom cho rằng mircen đóng một phần quan trọng trong việc hình thành linalol trong cây ngò trưởng thành từ khi ra hoa đến lúc có trái.[30] − 1976, MacLeod và Islam sử dụng thiết bị sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS) để nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu rau ngò [16] -11- Bảng 1.3. Thành phần hóa học của tinh dầu rau ngò Hợp chất % GC/MS Hợp chất % GC/MS Octanal 5.04 7-Dodecenal 21.37 Toluen 1.17 3,6-Undecadienal 3.42 3-Octenal 0.97 Tridecanal 4.05 Decanal 10.05 8-Tridecenal 1.68 5-Decenal 1.01 Tetradecanal 1.32 Undecanal 3.04 9-Tetradecenal 9.24 6-Undecenal 1.30 5,8-Tridecadienal 5.61 Dodecanal 16.27 10-Pentadecenal 2.95 − 1986, Lawrence nghiên cứu sự thay đổi thành phần hóa học của tinh dầu rau ngò trồng ở Hoa Kỳ theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây. Kết quả cho thấy có sự khác nhau về thành phần hóa học của tinh dầu rau ngò theo các giai đoạn phát triển. Hàm lượng các aldehid trong tinh dầu rau ngò ở cây trưởng thành cao hơn cây ngò còn non. Hàm lượng linalol tăng dần từ khi cây ngò ra hoa đến lúc có trái : [23] Bảng 1.4. Thành phần hóa học tinh dầu rau ngò Hoa Kỳ theo thời kỳ sinh trưởng Thành phần % theo thời kỳ sinh trưởng của cây Hợp chất 1 2 3 4 5 6 Octanal 1.20 11.20 0.85 10.66 0.44 0.35 Nonanal 0.51 0.20 0.11 0.05 0.05 0.08 Decanal 30.0 18.0 11.9 6.3 6.2 1.60 Camphor 0.08 vết 0.52 1.26 2.18 2.44 trans-2-Decenal 20.6 46.5 46.5 40.6 30.2 3.90 Dodecanal 3.30 1.67 0.96 0.64 0.52 0.41 trans-2-Undecenal 2.56 2.17 1.39 - - - Tridecanal 3.07 1.87 2.02 0.92 1.08 0.46 trans-2-Dodecenal 7.63 8.14 5.95 4.59 4.78 2.49 Tetradecanal 0.68 0.30 0.12 0.15 0.11 0.15 trans-2-Tridecenal 0.49 0.21 0.14 0.09 0.09 0.13 trans-2-Tetradecenal 4.45 2.57 1.73 1.53 1.59 1.73 Linalol 0.34 4.27 17.47 30.05 40.88 60.37 Geraniol 0.19 0.11 0.35 0.71 0.93 1.42 Acetat geranil 4.17 0.78 0.76 0.69 0.69 0.66 1 : Bắt đầu phát hoa 2 : Phát hoa gần như hoàn toàn 3 : Phát hoa hoàn toàn 4 : 50% hoa – 50% trái 5 : Toàn trái xanh 6 : Trái xanh – Trái chín -12- − 1990, Mookherjee và cộng sự công bố đã sử dụng phương pháp headspace để nghiên cứu sự khác nhau về thành phần hóa học của rau ngò đang sống trên cây và rau ngò đã được hái. Kết quả cho thấy ngoại trừ hợp chất chính trans-2-decenal, tất cả những cấu phần tạo mùi quan trọng trong rau đều bị giảm sau khi được hái khỏi cây.[20] Bảng 1.5. Thành phần hóa học tinh dầu rau ngò sống trên cây và rau ngò đã được hái Thành phần % GC/MS Hợp chất Rau ngò đang sống trên cây Rau ngò đã hái khỏi cây n-Nonan 15.2 4.7 Decanal 11.4 4.7 trans-2-Decenal 35.5 39.2 trans-2-Decenol 2.6 - Decanol 2.5 - Undecanal 1.5 - − 1990, Potter và Fagerson sử dụng thiết bị sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS) để xác định % thành phần hóa học của tinh dầu rau ngò ra hoa được trồng trong vườn rau ở Orange, MA:[36] Bảng 1.6. Thành phần hóa học của tinh dầu rau ngò ra hoa trồng ở Orange Hợp chất % GC/MS Hợp chất % GC/MS Nonal 0.2 1-Undecanol 0.2 Octanal 0.5 C12-enal (dây nhánh) 0.1 Nonanal 0.2 4-Dodecenal 0.1 (E)-2-Nonenal 0.3 11-Dodecenal 0.2 C10-enal (dây nhánh) 0.3 Dodecanal 1.6 C10-enal (dây nhánh) 0.2 10-Metil-2-undecenal 0.3 (Z)-4-Decenal 0.3 (E)-2-Dodecenal 10.3 9-Decenal 0.8 2-Dodecen-1-ol 1.4 Decanal 4.4 Tridecanal 0.1 8-Metil-2-nonenal 1.3 (E)-2-Tridecenal 0.7 (E)-2-Decenal 46.1 13-Tetradecenal 0.1 2-Decen-1-ol 9.2 Tetradecanal 0.7 1-Decanol 4.3 12-Metil-2-tridecenal 0.2 10-Undecenal 0.1 (E)-2-Tetradecenal 5.8 Undecanal 0.5 2-Tetradecen-1-ol 0.6 9-Metil-2-decenal 0.1 Pentadecanal 0.1 (E)-2-Undecenal 5.6 2-Pentadecenal 0.7 2-Undecen-1-ol 0.9 2-Hexadecenal 0.4 Heptadecanal 0.3 -13- − 1994, Smallfield và cộng sự nghiên cứu ảnh hưởng của việc xử lý sau khi thu hoạch cây ngò lên hiệu suất và thành phần hóa học tinh dầu. Kết quả cho thấy : [28] + Nguyên liệu xay, chưng cất ngay lập tức cho hiệu suất cao hơn nguyên liệu không xay. + Nguyên liệu sau thu hoạch, không xay, lưu giữ ở nhiệt độ phòng trong vòng 24 giờ không ảnh hưởng đến hiệu suất và thành phần hóa học tinh dầu. + Nguyên liệu xay, lưu giữ nhiều hơn 4 giờ sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất và thành phần % hóa học tinh dầu. Bảng 1.7. Ảnh hưởng của việc xử lý nguyên liệu đến thành phần hóa học (% GC/FID) tinh dầu rau ngò Thời điểm chưng cất Hợp chất Nguyên liệu không xay ngay lập tức sau 8.5 giờ (E)-2-Decenal 48.2 32.6 15.5 (E)-2-Decenol 1.6 8.5 27.7 Tác giả cũng định danh thành phần hóa học tinh dầu rau ngò gồm: nonan, linalol, decanal, (E)-2-decenal, (E)-2-decenol, decanol, (E)-2-undecenal, (E)-2-undecenol, dodecanal, (E)-2-dodecenal, (E)-2-dodecenol, (E)-2-tridecenal, (E)-2-tetradecenal, (E)-2-tetradecenol, (E)-2-pentadecenal, (E)-2-hexadecenal. - 1996, Potter công bố đã sử dụng hệ thống chưng cất hơi nước–dung môi Likens– Nickerson để trích lấy tinh dầu từ mẫu rau ngò còn non (1) và mẫu rau ngò trưởng thành (2). Ông xác định % thành phần hóa học tinh dầu rau ngò bằng thiết bị sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS) với cả hai chế độ ion hóa EI và CI :[45] -14- Bảng 1.8. Thành phần hóa học tinh dầu rau ngò Hợp chất % GC/MS (1)-(2) Hợp chất % GC/MS (1)-(2) Nonan 0.36-1.28 (E)-2-Dod

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf8.pdf
  • pdf1.pdf
  • pdf2.pdf
  • pdf3.pdf
  • pdf4.pdf
  • pdf5.pdf
  • pdf6.pdf
  • pdf7.pdf
  • pdf9.pdf
  • pdf10.pdf
  • pdf11.pdf
  • pdf12.pdf
Luận văn liên quan