Lý do chọn đề tài
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa
(Cây xuân chẳng biết người đi hết
Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều)
( Sầm Tham, Sơn phòng xuân sự)
Có lẽ hai câu thơ trên của Sầm Tham, một trong những nhà thơ nổi
tiếng phần nào đó là một hình ảnh khái quát cho sự bất tử của thơ Đường qua
bao thăng trầm, qua bao biến thiên của thời đại và qua cả sự bào mòn nghiệt
ngã của thời gian. Bởi, cảnh sắc và tâm hồn Trung Hoa xưa đã đọng lại trong
thơ Đường. Và, sự tồn tại bền vững ấy trước hết là nhờ một cội rễ văn hóa lâu
đời, là sự thấm nhuần những nguyên lý mĩ học Trung Hoa trong sáng tác:
huyền thoại chi âm, cam dƣ chi vị, ngôn ngoại chi ý. Cái hay, cái đẹp của
nghệ thuật văn chương hầu như đều có chung một cội nguồn
135 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2324 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Không gian lữ thứ trong thơ đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________
Phạm Vũ Lan Anh
KHÔNG GIAN LỮ THỨ TRONG
THƠ ĐƯỜNG
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số : 66 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
Lôøi Caûm Ôn
Trong suoát quaù trình hoïc taäp, toâi ñaõ nhaän ñöôïc raát nhieàu söï
quan taâm, giuùp ñôõ töø nhöõng taám loøng maø toâi traân troïng ñöôïc tri aân:
Xin chaân thaønh caûm ôn Quyù Thaày Coâ khoa Ngöõ Vaên tröôøng
Ñaïi hoïc Ñaø Laït, Ñaïi hoïc Sö Phaïm Tp Hoà Chí Minh, Phoøng
KHCN-Sau ÑH ñaõ taän tình giuùp ñôõ, taïo ñieàu kieän cho toâi trong
suoát quaù trình hoïc taäp vaø nhaát laø thôøi gian thöïc hieän luaän vaên.
Toâi thaät söï bieát ôn saâu saéc PGS. Traàn Xuaân Ñeà, giaûng vieân
tröôùng ñaïi hoïc Sö phaïm Thaønh phoá Hoà Chí Minh , ngöôøi höôùng daãn
luaän vaên.
Xin baøy toû loøng bieát ôn ñeán gia ñình, baïn beø ñaõ taïo ñieàu kieän, ñoäng
vieân ñeå toâi hoaøn thaønh luaän vaên naøy.
-------------------
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa
(Cây xuân chẳng biết người đi hết
Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều)
( Sầm Tham, Sơn phòng xuân sự)
Có lẽ hai câu thơ trên của Sầm Tham, một trong những nhà thơ nổi
tiếng phần nào đó là một hình ảnh khái quát cho sự bất tử của thơ Đường qua
bao thăng trầm, qua bao biến thiên của thời đại và qua cả sự bào mòn nghiệt
ngã của thời gian. Bởi, cảnh sắc và tâm hồn Trung Hoa xưa đã đọng lại trong
thơ Đường. Và, sự tồn tại bền vững ấy trước hết là nhờ một cội rễ văn hóa lâu
đời, là sự thấm nhuần những nguyên lý mĩ học Trung Hoa trong sáng tác:
huyền thoại chi âm, cam dƣ chi vị, ngôn ngoại chi ý. Cái hay, cái đẹp của
nghệ thuật văn chương hầu như đều có chung một cội nguồn.
Đến với thơ Đường không chỉ là đến với “sắc liễu bên bờ sông Dương
Tử, những cành mai đợi tuyết ở núi Cô Sơn, tiếng chuông chùa ở núi Hàn
San, chòm mây trắng trên lầu Hoàng Hạc” hay “Ải Ngọc Môn gió xuân
không bao giờ thổi tới, sông Hoàng Hà tuôn nước xuống tự trời cao”. Mà đến
với thơ Đường còn là những trăn trở rất riêng sau khi thưởng thức, khi ngẫm
thấy và nhận thấy bao nhiêu nỗi niềm riêng tây, vi tế, những sóng ngầm của
cõi lòng, những niệm thức đã bắt gặp sự giao hòa qua những vần thơ ấy. Và
có lẽ, gạt qua tất cả những thủ pháp nghệ thuật, tất cả những kĩ xảo của một
nền văn học đạt đến đỉnh cao trong đời sống tinh thần nhân loại, còn lại là sự
tồn tại của một không gian tinh thần, không gian xuyên thấu mà ở đó con
người (thi nhân và độc giả) ý thức được sự tồn tại của mình, không lu mờ,
2
không hòa lẫn, không là phát ngôn hay đại diện cho bất cứ điều gì khác ngoài
tình cảm của con người.
Trong cuộc sống bưng bít ở nông thôn thời trung đại dưới chế độ độc
quyền phương Đông (absolutisme oriental – chữ dùng của Karl Marx), nhà
thơ – nhà nho khư khư ngồi giữ lấy “xóm cùng làng hẻm”, “lìa nhà mƣời dặm
đã bùi ngùi mƣa gió hoa vàng, ở lữ thứ vài năm đã than thở quan hà đầu
bạc”. Bởi suy cho cùng, “nhà nho và người nông dân – hai nhân vật nông
thôn” khi ra khỏi không gian gia đình, làng-họ, không gian hương – tính, nhà
nho- nhà thơ khi đỗ đạt, được bổ nhiệm làm quan và trong thời gian làm quan
có thể bị biếm trích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, cầm quân ở chốn biên cương
thì nỗi cô đơn, bơ vơ nơi đất khách quê hương, nỗi niềm hoài niệm về cố
hương lại trở đi trở về đến nhức buốt, tái tê. Tất cả những nỗi niềm ấy được
gửi gắm vào những vần thơ bàng bạc sắc màu của không gian lữ thứ. Vì, đối
với nhà thơ trong tình cảnh như thế phải ra đi, phải rời xa làng - họ gia đình là
điều rất khó khăn, là chuyện đoạn trƣờng.
Có thể thấy, trong thế giới thơ Đường hiện hữu một lằn ranh vô hình
giữa hai không gian sáng tác của thi nhân thời đại hoàng kim của thơ ca
Trung Hoa: không gian gia đình, làng họ và không gian lữ thứ. Và kiểu loại
không gian thứ hai, không gian lữ thứ lại là không gian rất đặc trưng cho thơ
của nho sĩ-trí thức quan liêu. Chỉ khi ở vào trong không gian lữ thứ, những
“thuộc tính cố hữu” của nhà thơ (vốn xuất thân từ nhà nho và có chịu ảnh
hưởng của các luồng tư tưởng khác) mới bộc lộ một cách sắc nét, rõ ràng
nhưng hữu tình và thấm đẫm màu tâm trạng. Trong không gian bị bứng khỏi
môi trường quen thuộc cũ, những cảm thức của một con người trí quân trạch
dân, những khắc khoải mong sao muôn dân được sống trong “khoan, giản, an,
lạc”, mẫu người lí tưởng mà nhà thơ - nhà nho hướng đến là nội thánh ngoại
3
vƣơng, tu kỉ trị nhân có dịp bộc lộ. Con người xã hội với những trách nhiệm
của bản thân tác giả có một không gian tách biệt để suy tư, ngẫm ngợi, kiểm
chứng Nếu không tồn tại trong không gian lữ thứ, những điều mà tác giả sở
kiến chỉ tồn tại trong không gian gia đình làng quê vốn được coi là gốc rễ bình
yên. Và chỉ khi rời làng quê thì hàng loạt cảm xúc mới lạ mới chợt ùa về
trong lòng thi nhân như lòng tư hương, cảm thức biệt ly, sự bình an khi trở về
với nguyên tâm của chính mình trên hành trình du lãm lấy thiên nhiên làm
bạn mà có lẽ trong không gian thứ nhất những cung bậc cảm xúc ấy ngủ
yên, che lấp.
Hơn nữa, qua những bài thơ Đường được sáng tác trong không gian lữ
thứ, người đọc còn cảm nhận được phong cách độc đáo không lặp lại của từng
nhà thơ, sự tài tình trong việc xử lý các chi tiết, cách chọn đề tài, tìm thấy
những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ để rồi tự thấy rằng thiên nhiên trong trẻo
trong thơ Đường không còn là thực tại khách quan nữa mà là thực tại tâm lý,
thực tại ý niệm. Đâu đó trong thơ, còn là những cá tính, những khát vọng bay
lên khỏi cuộc đời trần tục cùng những thất vọng bế tắc của các nhà thơ - ông
quan trên mỗi bước đường hoạn lộ.
Qua việc tìm hiểu không gian lữ thứ trong thơ Đường, phần nào đó
những quan niệm tưởng chừng như rất xa với cuộc sống của con người hiện
đại, tưởng chừng như đã nhạt nhòa phôi pha theo dòng chảy của thời gian:
quan niệm về nhân cách con người-xuất phát điểm làm xuất hiện những đặc
trưng văn hóa mĩ học, quan niệm về thế giới tự nhiên, quan niệm về xã hội và
vị trí của nhân cách trong cấu trúc ấy có dịp được tái hiện. Để qua đó, dù
cảm để hiểu hay hiểu để cảm thì vẻ đẹp xưa của một thời cũng làm cho trái
tim người đọc mềm lại, để những cung bậc cảm xúc lẩn khuất đâu đó có dịp
ùa về, để thấy sự tồn tại của mình trên cuộc đời là có ý nghĩa Bởi đâu đó
4
phảng phất trong những bài thơ Đường qua không gian lữ thứ những tâm sự
của mình đã được ai đó nói hộ bằng thơ và hơn nữa bằng cả một tấm lòng.
Thơ Đường quả thật đã cất cánh trong không gian lữ thứ. Và tất cả
những điều trình bày ở trên khiến chúng tôi chọn cho mình đề tài nghiên cứu
KHÔNG GIAN LỮ THỨ TRONG THƠ ĐƢỜNG.
2. Lịch sử vấn đề
Sự phức tạp khi tìm hiểu thơ Đường có lẽ là điều không thể phủ nhận.
Không chỉ vì sự đa dạng của phong cách nhà thơ khi đội ngũ thi nhân được
mở rộng và lực lượng sáng tạo chủ đạo được thay đổi trong bối cảnh kinh tế -
xã hội Trung Quốc đạt đến đỉnh cao, bởi chính sách “dĩ thƣ thủ sĩ” (dùng thơ
để chọn người tài) và sự ái mộ đặc biệt của nhà vua và xã hội đối với thi
nhân; không chỉ vì sự phản ánh các mặt sinh hoạt trong xã hội của thơ Đường
được mở rộng hơn: khi các nhà thơ cúi xuống với nỗi đau của con người, đã
nhìn thấu những chuyển biến mong manh trong tâm trạng con người trước
những thời khắc đặc biệt, trước sự luân chuyển tưởng chừng rất vô tình của
thiên nhiên vạn vật; không chỉ bởi sự đa dạng trong phong cách nghệ thuật
cũng như các chi phái. Điều này có thể giúp người đọc hiểu hơn vì sao có sự
phân chia thành bốn phái biên tái-điền viên-lãng mạn-hiện thực và bốn giai
đoạn phát triển rực rỡ huy hoàng Sơ- Thịnh- Trung- Vãn. Ngoài ra, hình thức
nghệ thuật của thơ ca được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và thăng hoa được
cái chân thật, mộc mạc của Kinh Thi, cái bay bổng và trang nhã của Sở từ, cái
hào sảng của Hán nhạc phủ; là sự tự do tiếp nhận luồng gió tư tưởng Nho-
Phật-Lão, là sự xuyên thấu cùng các bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, vũ đạo,
hội họa, thư pháp, điêu khắc Tất cả những điều ấy đã làm nên một thời đại
thơ ca hoàng kim rực rỡ không chỉ của Trung Hoa, mà còn của các nước trong
khu vực văn học Đông Á thời trung đại và của toàn nhân loại yêu cái đẹp.
5
Ở Việt Nam, việc tìm hiểu văn học nước ngoài không phải là việc tìm
hiểu văn học lịch sử của các quốc gia đó mà là nghiên cứu về các đỉnh cao,
các kiệt tác nghệ thuật theo cảm quan riêng của người Việt. Thơ Đường của
Trung Quốc cũng không là ngoại lệ. Nhìn xuyên suốt các giai đoạn phát triển
của văn học trung đại Việt Nam, ngoài sự thăng hoa của truyện thơ Nôm mà
tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ chiếm một vị trí quan trọng
trong cảm quan thẩm mĩ của người Việt. Vì thế, trong bối cảnh của một không
gian địa lý và không gian tâm lý đặc thù như thế, thơ Đường đã được người
đọc Việt Nam tiếp nhận sáng tạo không chỉ trên phương diện thưởng thức mà
cả trong lĩnh vực sáng tác. Đến với thơ Đường không phải chỉ là một cuộc
dạo chơi trong lúc trà dư tửu hậu, mà còn để nhìn thấy sự cấu tạo và bản chất
của cái đẹp.
Cho đến nay, những công trình nghiên cứu thơ Đường bao gồm
nghiên cứu thơ Đường như một bộ phận rực rỡ về thi ca của văn học sử Trung
Hoa hoặc nghiên cứu những tác giả nổi tiếng của Đường thi hoặc nghiên cứu
một bài thơ hay một chùm các bài thơ về một đề tài nhiều không kể xiết. Trải
dài theo dòng chảy của văn học dưới sự biến thiên của thời gian, cách hiểu
thơ Đường của các nhà thơ, nhà nghiên cứu xưa thông qua cách cảm, bình
giảng, khám phá thần sắc, phong cốt, hứng tƣợng của thơ Đường. Bên cạnh
đó, việc dịch thơ Đường ra thơ Việt là một cách hiểu và thẩm định độc đáo
nội dung và nghệ thuật Đường thi, là dịp mà thơ Việt và thơ Đường giao hòa,
vượt thắng lẫn nhau, rất hữu ích và thú vị. Điểm đặc trưng là qua cảm quan
thẩm mĩ mang màu sắc trực quan của các nhà thơ, nhà nghiên cứu Việt Nam,
thơ Đường được tìm hiểu, khám phá ở mức độ tác phẩm. Và cuối thế kỉ XIX,
vua Tự Đức đã nhận xét thơ Đường một cách chủ quan, vu khoát, rằng “thi
đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đƣờng” (thơ ở Việt Nam đến Tùng Thiện Vương,
Tuy Lý Vương thì thơ Thịnh Đường không bằng).
6
Thế kỷ XX đánh dấu sự bùng nổ của các phương pháp và lý thuyết nghiên
cứu văn học mở ra nhiều hướng tiếp cận thơ Đường mới cho các nhà nghiên
cứu Việt Nam. Dưới góc độ tiếp nhận, bên cạnh sự tiếp xúc trực tiếp với thơ
Đường trên sự tương đồng văn hóa - văn học của các nước Đông Á; không
dừng lại ở mức độ bình giảng trực cảm các bài thơ riêng lẻ, các học giả và
dịch giả Việt Nam đã đón nhận, chuyển ngữ rất nhiều các công trình nghiên
cứu văn học Trung Quốc trong đó có thơ Đường. Những công trình nghiên
cứu thơ Đường ở các nước phương Tây nơi có ngành Đông Phương học phát
triển và đạt những thành tựu rực rỡ như Nga, Pháp, Anh, Mĩ không những
cung cấp cho các nhà nghiên cứu Việt Nam những cách tiếp cận mới mà còn
mở rộng biên độ cảm nhận thơ Đường.
Đó là những tiền đề quan trọng trong việc tìm hiểu và tri nhận một không
gian đặc biệt trong thơ Đường-không gian lữ thứ.
Và một trong những đề tài lớn của thơ Đường được đề cập là thơ tiễn
biệt, thơ biên tái và thơ sơn thủy- nơi mà không gian nghệ thuật đậm sắc màu
của không gian lữ thứ. Nhưng đối với các bài thơ thuộc mảng đề tài này, các
sách tham khảo và các giáo trình văn học Trung Quốc (Lịch sử văn học Trung
Quốc tập 1 do Nxb Giáo dục phát hành, Văn học sử Trung Quốc tập 2 của
Nxb Phụ nữ, giáo trình Văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, Phạm
Thế Ngũ, Trần Xuân Đề) cùng các tuyển tập trích dẫn thơ Đường hiện có ở
Việt Nam qua góc nhìn văn hóa đều không đề cập trực diện đến không gian lữ
thứ trong các bài thơ Đường. Điều duy nhất mà người đọc có thể cảm thấy
một không gian nghệ thuật riêng biệt mà qua đó các tác giả gửi gắm tâm trạng
của mình là sự xuất hiện trở đi trở lại của các cụm từ : sầu lữ thứ, sầu tƣ
hƣơng cố quận, sầu biệt ly, hoài niệm...
7
Sau này, khi yêu cầu chuyên sâu được đặt ra, một số tác phẩm nghiên cứu
chuyên biệt về các tác giả nổi tiếng như Vương Duy, Lí Bạch, Đỗ Phủ cũng
ít nhiều đề cập đến không gian lữ thứ trong các bài thơ của các tác giả trên
nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ cảm nhận, chưa xuất hện sự phân lớp, đối
chiếu để tìm ra sự khác biệt, độc đáo trong cách cảm nhận không gian lữ thứ
của các nhà thơ. Điều đặc biệt hơn nữa, qua cảm quan văn hóa phương Đông,
hầu hết các bài thơ Đường đều đề cập đến không gian lữ thứ: không gian chia
xa, tiễn biệt, lưu đày, biếm trích, du lãm Nhưng những nhận định về không
gian lữ thứ lại không nhiều, nếu có chỉ là ở mức khái quát chứ chưa đi sâu vào
tìm hiểu, nghiên cứu. Tuy nhiên, nguyên nhân của hiện tượng này (không
gian lữ thứ không được đề cập một cách trực diện) có nguồn gốc văn hóa sâu
xa vì thiên nhiên, không gian vũ trụ qua con mắt chủ toàn đã trở thành một
người bạn tri kỉ đối với các nhà thơ và trở về với thiên nhiên là sự trở về với
chính mình. Ở đây, không gian văn hóa đã gặp gỡ với không gian nghệ thuật
(không gian lữ thứ) tạo nên một sắc màu văn hóa rất đặc trưng của thơ Đường
như Lâm Ngữ Đường đã nhận xét: thơ là tôn giáo, là nhân sinh quan của
ngƣời Trung Hoa.
Qua góc nhìn của phương pháp so sánh và lý thuyết liên văn bản
(intertextuality), hầu như chưa có một công trình nào tiến hành đối chiếu và
so sánh để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt trong không gian lữ thứ của
Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ các nước phương Đông và xa
hơn nữa là các nước phương Tây. Ở Việt Nam, các yếu tố nghệ thuật của thơ
Đường xuất hiện dưới dạng những nhận định riêng lẻ về mối liên hệ so sánh
giữa hai nước đồng văn Việt Nam – Trung Quốc qua các bài viết của Trần
Nho Thìn (Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa), Cao Xuân
Huy (Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu), Phương Lựu
(Văn hóa, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam ), Lê Thị
8
Thanh Tâm (Nghiên cứu so sánh thơ thiền Lý Trần và thơ thiền Đƣờng Tống
– luận án tiến sĩ), Nguyễn Khắc Phi, Đoàn Lê Giang, Đoàn Hương, Trần
Ngọc Vương, Phan Ngọc, Nguyễn Tuyết Hạnh vì một mục đích khác: giải
thích rõ hơn những tồn nghi trong văn học sử Việt Nam. Nhưng tất cả những
nhận định ấy đã trở thành gợi ý quý báu cho người viết trong quá trình thực
hiện đề tài.
Các tư liệu viết về thơ Đường và có liên quan đến thơ Đường rất nhiều
tuy nhiên những tư liệu trực tiếp liên quan đến không gian lữ thứ thì rất ít ỏi
một phần do tính chuyên sâu của đề tài. Trong những năm gần đây, thành tựu
của phương pháp nghiên cứu văn học bằng ánh sáng thi pháp học đã đem lại
những khám phá, phát hiện đầy thú vị về thơ Đường trong đó ít nhiều có đề
cập đến không gian lữ thứ. Điển hình đó là sự xuất hiện của hàng loạt các
công trình nghiên cứu về không gian nghệ thuật, Về thi pháp thơ Đƣờng của
Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử; Thi pháp thơ Đƣờng của Nguyễn Thị Bích
Hải; Một số đặc trƣng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng của Nguyễn Sĩ
Đại; luận án tiến sĩ về Tứ tuyệt Lí Bạch của Phạm Hải Anh; Thơ sơn thủy cổ
đại Trung Quốc của Trần Trung Hỷ, Thi pháp thơ Đƣờng của Lương Duy
Thứ, lời mở đầu tác phẩm Giai thoại thơ Đƣờng của Cao Tự Thanh
Điểm nổi bật của cách nghiên cứu thi pháp học của các tác giả trên là đã
nhìn nhận không gian thơ Đường trong đó có không gian lữ thứ như một dấu
ấn mang đặc trƣng thẩm mĩ-nghệ thuật đặc biệt của thơ Đường, đã bước đầu
nhìn nhận không gian lữ thứ là một mã riêng như một chìa khóa để mở cửa
vào thế giới nghệ thuật của thơ Đường. Từ đây, qua góc nhìn thi pháp học các
nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận định mang tính gợi mở như không gian
tống biệt cũng là không gian vũ trụ (Nguyễn Thị Bích Hải), không gian du
lãm đã làm nên một phong cách riêng trong thơ tứ tuyệt Lí Bạch từ đó góp
9
phần củng cố địa vị Thi Tiên của ông ( Phạm Hải Anh) Không chỉ dừng lại
ở mức độ nhận định, các nhà nghiên cứu còn tiến hành một loạt các thao tác
cao hơn: sử dụng, phân tích hàng loạt các thủ pháp nghệ thuật để minh chứng
một điều: xây dựng và cảm nhận không gian lữ thứ trong thơ cần phải có một
thứ ngôn ngữ riêng của nó.
Thi pháp học đã cấp cho các nhà nghiên cứu một cái nhìn mới. Điển
hình là cách nhìn nhận của Francois Cheng – nhà kí hiệu học Pháp gốc Trung
Quốc với cách phân chia bố cục một bài thơ Đường thành 2/4/2 trong đó hai
câu đầu và hai câu cuối trật tự thời gian chiếm chủ đạo và bốn câu giữa trật
tự không gian lại chiếm vị trí chủ đạo cũng là một sự gợi ý thú vị để người
viết tìm hiểu về không gian lữ thứ. Tuy nhiên, như nhà nghiên cứu Cao Tự
Thanh đã nhận định: thi pháp cũng chỉ là một trong ba chiều làm nên không
gian thơ Đƣờng. Đời sống của thi nhân và quá trình sáng tác phổ biến,
thƣởng thức tác phẩm của họ là hai chiều còn lại [57,tr.16]. Nghĩa là môi
trường văn hóa và quá trình tìm hiểu thơ Đường kết hợp với thi pháp mới có
thể “phục nguyên” được không gian lữ thứ trong thơ Đường.
Tóm lại, trong quá trình thu thập và xử lý tư liệu có liên quan đến nội
dung của đề tài, người viết có một vài suy nghĩ:
Trước hết, những nhận định về không gian lữ thứ trong thơ Đường tồn tại
rải rác, không trực diện. Hầu như không xuất hiện một nhận định nào có thể
khái quát những nét cơ bản về không gian lữ thứ. Nhưng trên hết, tất cả các
nhận định ấy dù riêng lẻ nhưng đối với người viết chúng có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng: tất cả những nhận định đấy đều chứng minh cho sự tồn tại
của một không gian lữ thứ trong thơ Đƣờng và tạo một tiền đề cơ bản để
ngƣời viết triển khai các luận điểm của mình trong các chƣơng của luận văn.
10
Sau nữa, do tính chất tập trung chuyên sâu vào một vấn đề cơ bản của
luận văn nên dù tài liệu nghiên cứu về thơ Đường (ngoài những nhận định về
không gian lữ thứ) khá nhiều nhưng người viết chỉ tập trung vào những tài
liệu góp phần làm nổi bật nhận định: không gian lữ thứ là một không gian
mang tính nghệ thuật thẩm mĩ đặc biệt trong rất nhiều các kiểu dạng không
gian nghệ thuật độc đáo của thơ Đường.
Và không gian trong thơ Đường là không gian mang nhiều sức gợi.
Bởi đặc điểm chung nhất của thơ Đƣờng là “trọng tình” với bút pháp cơ bản
là “nhập thần”, không theo đuổi sự tái hiện diện mạo mà biểu hiện cái thần
của cảnh tƣợng thiên nhiên [29,tr.62]. Trong thời gian thực hiện đề tài, người
viết nhận thấy không gian lữ thứ cũng là sự thể nghiệm, cụ thể hóa những đặc
điểm ấy và chính điều này đã tạo nên một bản sắc vừa đa dạng nhưng cũng
vừa thống nhất trong phong cách của các nhà thơ.
Sự chuyển hóa đa dạng của các dạng thức trong không gian lữ thứ đòi
hỏi một sự nhận đồng (identity) - một sự chia sẻ, đồng cảm mang tính văn
hóa và chấp nhận tính tương đối của sự vật. Và ở những lằn ranh của những
dạng thức ấy, không gian lữ thứ có tính đa trị. Chính tính đa trị ấy giúp cho
không gian lữ thứ của thơ Đường bất tử với thời gian. Vì ở mỗi thời đại nhất
định, một (hoặc nhiều) khía cạnh và phương diện của không gian lữ thứ ấy trở
nên đặc biệt hơn. Và dưới ánh sáng bổ trợ của các ngành khoa học-nghệ thuật
khác, không gian lữ thứ sẽ hiển lộ những vẻ đẹp mới, sức sống mới phù hợp
với xu hướng thẩm mĩ và tầm đón nhận của bạn đọc.
Đến với thế giới thơ Đường sẽ là đến với một thế giới quen mà lạ, lạ
mà quen. Quen bởi những lợi thế trong cách cảm nhận của người Việt về thơ
Đường và lạ bởi đó là một vườn hoa mênh mông đầy sắc màu mà cả cuộc đời
của một con người khó có thể chiêm ngưỡng đến tận cùng vườn hoa đó.
11
Không gian lữ thứ trong thơ Đƣờng được triển khai trên cơ sở kế thừa và mở
rộng dựa trên tất cả những thành tựu nghiên cứu về Đường thi của các bậc
tiền bối và cũng là một cách để thưởng lãm vẻ đẹp rất riêng của vườn hoa
muôn hồng nghìn tía ấy.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được lựa chọn để thực hiện và triển khai đề tài b