Luận văn Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát

1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án. Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng bắt khẩn cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình chỉ thì có 1939 người bị áp dụng biện pháp tạm giam; trong thời gian từ 1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925 vụ/ tổng số 49684 vụ án VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v. Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất đối với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội. Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS. Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát" là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nên tôi đã chọn đề tài này làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm 1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố - điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn. Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ năm 1999 đến nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự; hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. - Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay trên địa bàn toàn quốc. 4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình. 5. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.

doc132 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4149 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ... Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án. Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng bắt khẩn cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình chỉ thì có 1939 người bị áp dụng biện pháp tạm giam; trong thời gian từ 1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925 vụ/ tổng số 49684 vụ án VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v... Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất đối với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội. Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS. Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát" là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nên tôi đã chọn đề tài này làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm 1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố - điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn. Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ năm 1999 đến nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự; hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. - Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay trên địa bàn toàn quốc. 4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình. 5. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự. Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [6]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu: Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [5]. BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị. Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố - điều tra. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự a) Khái niệm Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan,... được áp dụng một số biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tin báo, tố giác về tội phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tin báo, tố giác về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v... Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các thông tin tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời gian của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp của các tin báo, tố giác về tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý. Theo quy định Luật tố tụng hình sự thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết luận chính xác các nội dung đó thì phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự đó là giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: "Là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự" [6]. b) Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau: Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, có thời hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải quan,...Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v... 1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự a) Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án. Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn. Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật. Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [6]. b) Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau: Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm. Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Các biện pháp
Luận văn liên quan