Hiện nay trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109 triệu km2
,
biển được các nước xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lý theo
công ước quốc tế. Biển đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia có biển, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Bên cạnh đó
tài nguyên trên đất liền ngày một cạn kiệt, còn các tài nguyên, khoáng sản ở biển gần như
nguyên thuỷ, vì vậy các quốc gia có biển đều có chiến lược phát triển hướng ra biển, tăng
cường tiềm lực để khai thác và khống chế biển.
Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh
tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km2
, thêm vào đó là đặc điểm không phải quốc
gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển hở thông với Đại Dương. Vì thế,
Việt Nam không những có nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái
tạo và không tái tạo phong phú, quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà còn là cơ hội
giao thương với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong
đó phát triển ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải biển, các công trình ven biển,
các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế.
Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong đó có chiến lược kinh tế biển những
năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đầy
thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA)
và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chiến lược kinh tế biển
của Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối
đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo thế và lực
để phát triển mạnh kinh tế -xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển Tổ quốc. Để đạt được
mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ cấu kinh tế vùng
hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng ngập mặn và ven biển, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát triển thương mại-hàng hải trong một chương
trình liên kết các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa
phương thức), kéo theo đó là công nghiệp đóng tàu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản
127 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3725 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kinh tế biển ở Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kinh tế biển ở Nghệ An trong hội
nhập kinh tế quốc tế
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109 triệu km2,
biển được các nước xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lý theo
công ước quốc tế. Biển đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia có biển, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Bên cạnh đó
tài nguyên trên đất liền ngày một cạn kiệt, còn các tài nguyên, khoáng sản ở biển gần như
nguyên thuỷ, vì vậy các quốc gia có biển đều có chiến lược phát triển hướng ra biển, tăng
cường tiềm lực để khai thác và khống chế biển.
Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh
tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km2, thêm vào đó là đặc điểm không phải quốc
gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển hở thông với Đại Dương. Vì thế,
Việt Nam không những có nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái
tạo và không tái tạo phong phú, quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà còn là cơ hội
giao thương với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong
đó phát triển ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải biển, các công trình ven biển,
các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế.
Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong đó có chiến lược kinh tế biển những
năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đầy
thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA)
và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chiến lược kinh tế biển
của Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối
đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo thế và lực
để phát triển mạnh kinh tế -xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển Tổ quốc. Để đạt được
mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ cấu kinh tế vùng
hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng ngập mặn và ven biển, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát triển thương mại-hàng hải trong một chương
trình liên kết các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa
phương thức), kéo theo đó là công nghiệp đóng tàu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, xây
dựng cảng biển và dịch vụ cảng biển, tạo nên cơ cấu kinh tế công nghiệp ven biển hiện đại,
nơi có số lượng và cường độ giao dịch thương mại-hàng hải diễn ra hết sức lớn.
Là quốc gia nằm bên bờ biển Đông, nước ta có vùng biển rộng 1 triệu km2, dài
3.260 km trải dài ở cả ba hướng Đông, Nam và Tây Nam. Ven bờ biển nước ta gần 300
đảo lớn nhỏ với diện tích 1.700 km2 gồm 2 quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng Sa. Biển
Đông Việt Nam là con đường chiến lược và giao lưu thương mãi quốc tế giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, tài nguyên, khoáng sản phong phú và đa dạng là điều kiện
thúc đẩy khai thác hiệu quả các nguồn lợi từ biển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất
nước.
Từ lợi thế vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
nước ta là hết sức quan trọng. Ngày 5/6/1993 Bộ Chính Trị ra Nghị Quyết 03- NQ/TƯ về
một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt - trong đó khẳng định
đẩy mạnh kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ngày
22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành chị thị số 20-CT/TƯ đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
theo hướng CNH, HDH. Cho đến Hội nghị lần thu IV Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá X đã thông qua Nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Như vậy,
bây giờ chúng ta nhìn về kinh tế biển một cách toàn diện hơn.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; phát huy vai trò của biển và
vùng ven biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh- quốc phòng, Nghệ
An là một tỉnh có biển hải phận rộng 4.230 hải lý vuông. Có chiều dài bờ biển hơn 82km
trải dài từ Quỳnh Lập-Quỳnh Lưu cho đến Cửa hội - Cửa Lò. Bờ biển có nhiều kiểu địa
hình phức tạp bình quân cứ 20 km có một cửa sông, đầm phá vũng vịnh nhỏ. Biển Nghệ
An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Vùng ven biển Nghệ An
thuộc 5 huyện, thị thành phố: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Thị
xã Cửa Lò. đảo Mắt, đảo Ngư nằm giữa biển có hệ sinh thái đặc trưng của biển và vùng
ven biển đối với phát triển kinh tế - xã hội về trí chiến lược an ninh, quốc phòng của
Tỉnh, ngày 12/2/2007 Tỉnh uỷ Nghệ an ban hành NQ 16 về ”chương trình hành động,
phối hợp các ngành, nghề phát triển kinh tế biển”. Từ thực tế trên, vấn đề "Kinh tế biển
ở Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế" được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ
kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/05/1993 Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 03 - NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước
mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng
cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban
hành Chỉ thị số 20-CT/TW về mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá
hiện đại hoá. Từ những quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X đã thông qua nghị quyết về Chiến lược phát triển biển Việt
Nam đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, biển, đảo góp phần qua trọng trong sự nghiệp,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Vấn đề của kinh tế biển là chủ đề mới được đề cập gần đây, do đó số công trình
nghiên cứu chưa nhiều, chưa đa dạng chủ yếu chỉ đề cập những dạng sau:
- Thông tin chuyên đề số 08, ngày 25/12/2006 của văn phòng Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam về "Chiến lược và mô hình quản lý biển của một số nước".
- Tạp chí Cộng Sản số 20, ngày 25/9/2007 "Về kinh tế biển".
- Tạ Quang Ngọc, "Để Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về biển và giàu lên
từ biển", Tạp chí Cộng sản, tháng 7/2007.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2007) về "Biển và hải đảo Việt Nam".
- Đỗ Hoài Nam (2003), "Phát triển kinh tế - xã hội và môi trường các tỉnh ven biển
Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Cao Đoàn (1999), "Đổi mới phát triển kinh tế ven biển", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Mai Văn Ngọc (2008), "Phát triển ngành thuỷ sản Quảng Bình theo hướng bền
vững", Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bon (2008), "Kinh tế biển Sóc Trăng", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội.
- Dương Văn Hồng (2008), "Kinh tế biển Trà Vinh", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Mặc dù thời gian qua không ít đề tài nghiên cứu kinh tế biển ở nhiều khía cạnh khác
nhau, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu kinh tế biển
Nghệ An trên phương diện kinh tế chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không
trùng với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của phát triển kinh tế biển nói chung,
đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy tiềm năng, lợi thế để phát
triển kinh tế biển của Nghệ An trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế biển; đánh
giá thực trạng phát triển kinh tế biển của Nghệ An thời gian qua; đề xuất phương hướng,
giải pháp để phát triển kinh tế biển Nghệ An trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới,
giai đoạn 2009 - 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chú trọng nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế biển Nghệ An trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế biển ở một số
địa bàn như: Thị xã Cửa Lò, Huyện Nghi Lộc, Huyện Diễn Châu, Huyện Quỳnh Lưu ...
trong khoảng thời gian từ 2003 - 2008.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý của Chủ Nghĩa Mác- lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm, Nghị quyết cùng với những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về kinh tế biển và
kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng – lịch sử, luận văn chú trọng sử
dụng các phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lô gích với lịch sử, tổng hợp và
phân tích, so sánh ...
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ sở chủ yếu của phát triển kinh tế biển;
Khái quát những thành tựu, hạn chế phát triển kinh tế biển của Nghệ An trong thời
gian qua;
Đề xuất phương hướng và giải pháp có tính khả thi để phát triển kinh tế biển Nghệ
An, giai đoạn đến 2015và tầm nhìn 2020.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ BIỂN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Một số khái niệm
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là" thế kỷ của biển và Đại dương". Trong
điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày bị cạn kiệt, không gian kinh tế
truyền thống đã trở nên không còn phù hợp nữa, nhiều quốc gia bắt đầu có chiến lược
quay ra biển và định hình các phương án chiếm biển và khống chế biển, khai thác các
nguồn lợi từ biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới, để tìm kiếm và
bảo đảm các nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn
trong tương lai.
Với việc phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, Nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật
tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Ngày 2 tháng 8
năm 1977, Hội thảo khoa học về biển lần thứ nhất được tổ chức tại Nha Trang đã nêu rõ
phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật về biển và kinh tế
biển. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã có một số Nghị
quyết, chính sách phát triển kinh tế biển - Đặc biệt quan trọng nhất phải kể đến Nghị
quyết số 03-NQ/TW, ngày 06/05/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ phát triển
kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia” - trong đó nhấn
mạnh nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một
quốc gia mạnh lên từ biển và giàu lên từ biển vào những năm 2020; Ngày 22/9/1997, Bộ
Chính trị đã ban hành chị thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo
hướng CNH, HĐH” chủ trương phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh lên từ biển,
đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội biển đảo và ven biển kết hợp với yêu cầu
bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia ... Như vậy, phát triển kinh tế biển đã được đặt trong
tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc,
cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc ta. Lấn biển để dựng
nước đồng thời thông qua biển để giữ lấy nước đây là nét độc đáo trong bản sắc văn hoá
Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Công ước năm 1982, vùng biển của nước ta được mở rộng lên đến gần một triệu
km2, tiếp giáp với năm vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau. Tuy nhiên, do tính đặc
thù của môi trường biển nên mọi hoạt động của kinh tế biển đều liên quan mật thiết và
chịu sự tác động của đất liền, không thể tách rời kinh tế biển ra khỏi kinh tế đất liền. Vì
vậy, khi xem xét kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ,
khía cạnh cần thiết. Do vậy, việc thống nhất trong quan niệm chung về biển, kinh tế biển
và kinh tế vùng ven biển là cần thiết để nghiên cứu nội hàm của chúng.
Theo nghĩa chung nhất và theo truyền thống, biển được quan niệm là một vùng
nước mặn rộng lớn nối liền với các Đại dương, hoặc là các hồ nước mặn có thông với Đại
Dương một cách tự nhiên; đôi khi, biển chỉ là một hồ nước ngọt được khép kín hoặc có
đường thông tự nhiên ra các biển cả lớn. Trong đời sống thông thường biển được hiểu
như một từ đồng nghĩa với Đại Dương hoặc là các vùng nước Đại Dương nói chung [12].
Mặc dù vậy, cái được gọi là kinh tế biển – về mặt khái quát có thể hiểu, bao gồm:
Thứ nhất, toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển như kinh tế hàng hải (vận
tải biển và dịch vụ cảng biển), đánh bắt và nuôi trồng hải sản, khai thác dầu khí ngoài
khơi, du lịch biển, làm muối, dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển, kinh tế đảo...
Thứ hai, nó bao gồm cả các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác biển, mặc dù
không hoàn toàn diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này lại liên quan đến yếu tố
của biển hay trực tiếp phục vụ cho kinh tế biển ở vùng ven biển – thông thường đó là
hoạt động đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp vào kinh tế hàng
hải), công nghiệp chế biến dầu, khí, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản, cung cấp dịch vụ
biển, thông tin liên lạc (biển), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực
phục vụ kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển ...
Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển lại bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh
tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hay các
tỉnh tiếp giáp biển - có địa giới tiếp giáp biển) bao gồm cả lĩnh vực nông lâm, ngư
nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn đó.
Như vậy, kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên biển và ở
đất liền nhưng có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ
biển.
Từ những định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu chúng ta thấy đặc trưng của kinh tế
biển khác với các ngành khác, so với một số ngành kinh tế khác. Vì kinh tế biển luôn
mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang tính chất đa ngành, đa lĩnh vực: Bao gồm
nhiều ngành, nghề khác nhau, có quan hệ tác động qua lại lệ thuộc lẫn nhau.
1.1.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế biển trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Những tất yếu bên trong
Nước ta với diện tích đất liền không lớn, mật độ dân số cao, đặc biệt ở vùng đồng bằng
sông Hồng và các đô thị; có khoảng1/3 dân số cả nước sinh sống ở vùng ven biển và trực tiếp
chịu ảnh hưởng của biển, nhưng chỉ có gần 40% số này sống nhờ hoạt động kinh tế liên quan
trực tiếp đến biển [1, tr.52].
Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế nhằm thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế, khoa học... trong khi nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày một
cạn kiệt và không có khả năng tái tạo. Để đảm bảo khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững với tốc độ hàng năm từ 8% trở lên... thì các lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển
và kinh tế ven biển phải được coi trọng và đóng vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế [2,
tr.53].
Hướng phát triển ra biển càng cần thiết hơn nữa khi nước ta mở cửa hội nhập trong
điều kiện xuất phát điểm thấp. Mặc dù kinh tế biển nước ta chưa phát triển, chưa bắt kịp
xu thế của thế giới, thì những hạn chế trong việc khai thác vùng gần bờ lại thể hiện càng
rõ hơn khi vươn ra vùng biển quốc tế. Là một quốc gia có biển, một nhân tố được xem
như là đắc địa, Việt nam cần tăng cường hơn nữa những khả năng vươn ra biển và xác
định đây là nhân tố thúc đẩy các vùng trong đất liền phát triển.
Từ vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị rất quan trọng của biển Việt Nam nên trong sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đảng ta xác định một nhiệm vụ, một phương hướng, một quyết tâm chiến
lược: "Việt Nam phải trở thành một quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển" [3, tr.19].
Quốc gia mạnh về biển là quốc gia xây dựng được tiềm lực mọi mặt khai thác hiệu
quả và bảo vệ vững chắc vùng biển của mình. Tiềm lực ở đây là tiềm lực chính trị, tinh
thần, văn hoá, tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực khoa học- công nghệ, tiềm lực quốc
phòng, an ninh- đối ngoại.
Về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, với việc một số
quốc gia ven Biển Đông chưa đạt được thoả thuận về phân định vùng biển, hải đảo đang
tiềm ẩn những bất ổn, dễ dẫn đến xung đột, tác động không nhỏ đến ổn định của khu vực.
Thực tiễn phát triển của đất nước đòi hỏi phải xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
biển một cách khoa học và hợp lý, cần phải có một chương trình hành động toàn diện về
biển và vùng ven biển, nhanh chóng xây dựng một Việt Nam quốc gia mạnh về biển.
Giàu lên từ biển là khai thác hiệu quả cao mọi tiềm năng kinh tế biển đem lại sự giàu có
cho đất nước, cho địa phương vùng ven biển và cho từng gia đình làm kinh tế biển đảo.
Lợi ích kinh tế biển không chỉ xuất từ một địa phương, một ngành mà cần có sự liên
kết một cách khoa học sự phát triển các ngành các lĩnh vực trên toàn vùng, trên địa bàn
cụ thể thành một chương trình đồng bộ thống nhất. Đặc biệt phát triển phải chú trọng mọi
mặt ở những vùng ven biển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định cần phải
xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, trọng tâm, trọng điểm.
Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển,
khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển, đẩy nhanh công nghiệp đóng tàu biển
và công nghiệp khác, chế biến hải sản. Phát triển mạnh, đi trước một bước, một số vùng
kinh tế ven biển và hải đảo [4, tr.93].
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực... thì một khuynh hướng cơ bản là phải
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Trước mắt cần
tập trung đầu tư phát triển các lĩnh vực: Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, hải sản, rà
soát và bổ sung quy hoạch hệ thống cảng biển, các cơ sở đóng tàu, hệ thống vận tải và
các dịch vụ hàng hải, phát triển du lịch biển đảo, với cơ cấu ngành, nghề phong phú, hiện
đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, đạt hiệu quả cao. Kết hợp chặt chẽ với phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, tăng cường hợp
tác quốc tế, vừa phát triển góp phần vào bảo vệ quốc gia. Trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán nước ta, đồng thời khai thác tài
nguyên ở hải phận quốc tế. Xây dựng các trung tâm kinh tế, khu kinh tế, khu công
nghiệp, khu chế xuất lớn ở vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động
lực quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ với phát triển
vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển nội địa...
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ to lớn đó, trước hết cần phải có chính sách tạo
sức hấp dẫn thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển trên tinh thần chủ động, tích
cực hội nhập. Phát huy triệt để các nguồn lực bên trong, tranh thủ sự hợp tác các nguồn lực
bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của mỗi quốc gia.
1.1.2.2. Những tác động từ bên ngoài
Toàn cầu ho