Luận văn Kinh tế nông nghiệp và vai trò chủ đạo của nó trong nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam

Thế kỷ 21 đang diễn ra trước mắt chúng ta với nhiều thách thức và cơ hội, đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với kinh tế nhà nước ta- một thành phần kinh tế chủ đạo nói riêng. Từ năm 1986 đến nay Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng đều xác định kinh tế Nhà n ước giữ vai trò chủ đạo, tuy nhiên quan điểm đó được đánh giá theo tư duy mới. Đặc biệt trong thời kì đổi mới ngày nay,đứng trước cơn gió hội nhập của khu vực và thế giới thì việc xác định chỗ đứng của TPKT này đang vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và cấp bách . Để tìm hiểu những thành tựu to lớn mà TPKT này đã đạt được, cũng như những hạn chế còn thiếu sót, những kinh ngiệm quý báu trong việc sắp xếp lại thành phần - cơ cấu, sự thay đổi phương thức sản xuất- quản lý, phương châm chỉ đạo trong các ngành, các lĩnh vực của kinh tế Nhà Nước em quyết định chọn đề tài này để viết đề án . Nội dung Đề án gồm có 3 phần: Phần I: Quan niệm về Kinh tế Nhà Nước. Phần II: Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà Nước. Phần III: Những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà Nước.

pdf14 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Kinh tế nông nghiệp và vai trò chủ đạo của nó trong nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Kinh tế nông nghiệp và vai trò chủ đạo của nó trong nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam Lời nói đầu Thế kỷ 21 đang diễn ra trước mắt chúng ta với nhiều thách thức và cơ hội, đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với kinh tế nhà nước ta- một thành phần kinh tế chủ đạo nói riêng. Từ năm 1986 đến nay Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng đều xác định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tuy nhiên quan điểm đó được đánh giá theo tư duy mới. Đặc biệt trong thời kì đổi mới ngày nay,đứng trước cơn gió hội nhập của khu vực và thế giới thì việc xác định chỗ đứng của TPKT này đang vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và cấp bách . Để tìm hiểu những thành tựu to lớn mà TPKT này đã đạt được, cũng như những hạn chế còn thiếu sót, những kinh ngiệm quý báu trong việc sắp xếp lại thành phần - cơ cấu, sự thay đổi phương thức sản xuất- quản lý, phương châm chỉ đạo trong các ngành, các lĩnh vực của kinh tế Nhà Nước em quyết định chọn đề tài này để viết đề án . Nội dung Đề án gồm có 3 phần: Phần I: Quan niệm về Kinh tế Nhà Nước. Phần II: Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà Nước. Phần III: Những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà Nước. Nội dung I Quan niệm về kinh tế nhà nước Trước hết, khi nói về kinh tế nhà nước theo cách hiểu hiện nay là thành phần kinh tế mà những đơn vị,tổ chức sản xuất và kinh doanh trong đó nguồn lực của nhà nước(NN) chiếm tỷ lệ chi phối hoặc có 100% nguồn vốn Nhà nước. KTNN bao gồm các bộ phận chủ yếu :các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế của NN, các ngành công nghiệp, thương nghiệp, GTVT, xây dựng cơ bản, nông trường, lâm trường quốc doanh … KTNN còn bao gồm các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như :Đất đai, tài nguyên, ngân hàng,tài chính,dự trữ quốc gia…ở đây có sự phân biệt rõ rệt giữa tài sản và cổ phần Nhà nước,giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng của NN.Tài sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều hình thức, ví dụ nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu đất đai, ngân hàng …nhưng NN lại giao cho các TPKT khác quyền sử dụng và quản lý bằng việc cho thuê, tô nhượng, đầu tư. Còn cổ phần NN là do NN góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc các TPKT khác nhưng chỉ chiếm tỷ lệ thấp về số vốn đầu tư. Mặt khác KTNN có vai trò tương đương là một chủ kinh tế với nguồn vốn do NN cấp, phương thức hoạt động sản xuất và định hướng phát triển của nó nằm dưới sự điều hành, quản lý của NN. Do đó nó thuộc quyền sử dụng của NN. Đặc điểm cơ bản đầu tiên trong TPKT này là sự phân loại doanh nghiệp NN thành hai loại chủ yếu sau: Loại thứ nhất: Các doanh nghiệp hoạt động trước hết vì lợi ích công cộng, mục đích trực tiếp không vì lợi nhuận, nhằm bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, như: Các doanh nghiệp sản xuất các loại sản phẩm phục vụ cho quốc phòng an ninh, phục vụ công cộng, kết cấu hạ tầng, giáo dục,y tế. Loại thứ hai: Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận . Loại doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong sự nghiệp thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như hỗ trợ các TPKT khác, làm tăng thu nhập ngân sách, ổn định tài chính và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của xã hội. Khái niệm KTNN rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, do đó phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn vai trò KTNN là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Sự hình thành KTNN bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó bên cạnh việc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân chuyển thành các doanh nghiệp NN thì ở nước ta NN đầu tư xây dựng mới là chủ yếu. Nguyên nhân là do cơ cấu kinh tế, cơ sở hạ tầng của chế độ cũ để lại quá thấp kém và lạc hậu, nền kinh tế mang đặc điểm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ . Trong khi đó yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước đòi hỏi nhiều trình độ công nghệ tiên tiến, khoa học, phải xây dựng được nền tảng vững mạnh của nền kinh tế công nghiệp đặc biệt là nghành công nghiệp mũi nhọn đủ sức đáp ứng yêu cầu thực tế đó. Chính vì vậy KTNN mà đại diện là các doanh nghiệp NN được xây dựng từ rất sớm với nguồn vốn huy động tương đối lớn bao gồm nhiều nghành công nghiệp quan trọng như: cơ khí, điện, xi măng, hoá chất, dệt may, than, GTVT…Bên cạnh đó chúng ta cũng chú trọng đầu tư vào một số ngành công nghiệp nhẹ như: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng …đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Như đã nói ở trên, KTNN hoạt động dựa trên sở hữu NN về các tư liệu sản xuất chủ yếu, NN là người sở hữu vốn nhưng lại giao quyền sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cho các doanh nghiệp NN - sản xuất kinh doanh có kế hoạch, thực hiện hạch toán kinh tế, phân phối theo lao động. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa nước ta so với các nước TBCN, điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ trong cơ cấu kinh tế của họ KTNNđóng vai trò điều tiết và hỗ trợ nền kinh tế .Tuy nhiên chế độ phân công lao động trong xã hội lại phụ thuộc hình thức đóng góp tài sản, cho nên lợi ích nằm trong tay giai cấp tư sản - trong đó kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị. Còn đối với nước ta KTNN với tư cách là chủ thể chính đại diện cho lợi ích nhân dân lao động trong xã hội, được ưu tiên phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, định hướng nền kinh tế không đi chệch hướng quỹ đạo XHCN. II. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước Kinh nghiệm thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy rằng KTNN có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy trong khi tiến hành đổi mới và tham gia vào nền kinh tế thị trường nó cần phải có một hướng nhìn mới toàn diện và thực tế hơn. Vai trò đó thể hiện khá sâu sắc trong nền kinh tế ở “tính định hướng- dẫn dắt - và chi phối”. Thứ nhất, KTNN nhờ có ưu thế về nhiều mặt, đặc biệt là cơ sở vật chất - kỹ thuật mạnh so với các TPKT khác do đó nó có khả năng tổ chức liên kết, liên doanh kinh tế, phân công chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất các ngành, vừa cải tạo vừa xây dựng, sử dụng các TPKT khác. Trong quá trình sản xuất và lưu thông KTNN đảm nhiệm việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giúp đỡ vốn và kỹ thuật…Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển những ngành nghề đòi hỏi nhiều vốn đầu tư mà tư nhân không thể làm như xây dựng hệ thống ngân hàng và các cơ quan tài chính bảo hiểm, giao thông thông tin và công nghiệp mũi nhọn …thì KTNN đứng ra đảm nhiệm. Nghiên cứu vai trò chủ đạo của kinh tế, chúng ta thấy rằng, vai trò chủ đạo của một hình thức kinh tế thể hiện ở chỗ tính chất, đặc điểm, phương thức tác động của nó tới các thành phần khác, từ đó làm thay đổi và xác định phương thức hoạt động của các TPKT khác. Điều kiện đó đảm bảo cho nền kinh tế vận động theo mục tiêu chung của Đảng và NN đã khẳng định- xây dựng, phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực KTNN giữ vai trò chủ đạo, định hướng - chi phối cho sự phát triển của các TPKT. Thứ hai, với tư cách một tổ chức kinh tế tầm cỡ quốc gia, KTNN có vai trò tích cực trong vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài và liên doanh với các hãng lớn, tạo điều kiện cho ta áp dụng các tiến bộ về công nghệ - khoa học kỹ thuật, mở rộng thị trường trong nước ra ngoài khu vực. Mặt khác, theo những tiêu chuẩn đã nêu trên thì rõ ràng khu vực KTNN hiện đang nắm giữ các ngành sản xuất quan trọng nhất như năng lượng, nhiên liệu, xi măng, thép, hoá chất, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ngoại thượng, một phần nội thương, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia và những tài nguyên của đất nước, đang giữ vai trò chi phối nền kinh tế, vì vậy về khách quan nó đang giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế là phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Văn kiện ĐHĐB giữa nhiệm kỳ khoá VII đã nêu“ KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để NN định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế ”. Biểu hiện của vai trò chủ đạo của KTNN KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên các mặt: Là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội. Nó chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn, then chốt của nền kinh tế, có khả năng chi phối môi trường xã hội và đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế. Trong giai đoạn 1990 - 1991 đạt một số chỉ tiêu kinh tế như sau: Tổng sản phẩm 34.5% Thu nhập quốc dân 27% Tổng sản phẩm công nghiệp quốc doanh 57% Xây dựng cơ bản 76% Nông nghiệp 3% Các ngành bưu chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không 100% KTNN góp phần hết sức quan trọng vào việc tạo ra sản phẩm cho xã hội và nguồn thu ngân sách, tạo ra nguồn lực đáng kể trong tay NN để điều tiết quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, KTNN còn đảm bảo sức sản xuất và hoạt động của nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ xuất, nhập khẩu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tiêu cực trong đời sống. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ, giúp đỡ các TPKT khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tính chất này của KTNN xuất phát từ vị trí chiến lược và khả năng chi phối đến môi trường kinh tế - xã hội. Có những ngành có vai trò quan trọng như là những yếu tố đảm bảo, tác nhân kích thích cho sự phát triển các ngành khác như giao thông vận tải, thông tin liên lạc..song do tính chất của những ngành này mà các thành phần khác hoặc là không đủ vốn, hoặc là gặp khó khăn về mặt quản lý trong thu hồi vốn, thu lợi nhuận nên không đầu tư. Để khuyến khích mọi TPKT đầu tư sản xuất khu vực KTNN đứng ra tổ chức xây dựng những cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tạo môi trường hoạt động kinh doanh có hiệu quả.ở đây vai trò chủ đạo của KTNN được thể hiện như là yếu tố mở đường, kích thích sự phát triển toàn bộ theo định hướng nhất định. Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để NN thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết cơ chế thị trường. KTNN không những định hướng sản xuất, mà còn chi phối các chính sách xã hội kiềm chế được khuynh hướng độc quyền và tự phát của kinh tế thị trường, bởi lẽ trong kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau vừa có những tích cực đồng thời có cả những hạn chế tiêu cực, do đó cần phải có một “bàn tay“ can thiệp chỉ đạo và chi phối những tiêu cực đó. ở đây chúng ta nói đến TPKT chủ đạo đảm nhận vai trò này - nó phải có một sức mạnh vật chất đủ lớn mới có thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc điểm như đã nói trên đây, chúng ta thấy rằng KTNN có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ đó, với sản lượng giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng tương đối lớn tạo ra đem lại khả năng chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt và định hướng thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp. KTNN tạo dần nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, thu nhập của dân cư thấp kém, tích luỹ nhỏ nên việc đầu tư lớn chỉ có thể thực hiện được bằng vốn NN.. Mặt khác, KTNN thông qua việc cung cấp hàng hoá tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lưu thông phân phối giữa các ngành và các khu vực, góp phần bảo đảm việc xoá đói giảm nghèo, tiến hành các biện pháp trợ cấp thường xuyên, đột xuất, cho vay vốn để phát triển sản xuất, góp phần khắc phục sự khác biệt giữa các vùng và qua đó làm tăng tinh thần hoà hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc. Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Các ngành, các doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất kinh doanh của KTNN không ngừng nâng cao năng suất. So với năm 1991, năm 1992 thu nhập quốc dân tăng 5.3%, sản lượng công nghiêp tăng 14.5%, sản lượng lương thực tăng 9%, đầu tư xây dựng cơ bản của NN tăng 25%, xuất khẩu tăng 19%, đầu tư nước ngoài tăng73%…Với lợi thế về vốn, kỹ thuật và lao động, KTNN là đơn vị tổ chức mạnh, sản xuất lớn, là đơn vị kinh doanh có hiệu quả, từng bước dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo bước đi của mình. “Trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển nhất là trong hoàn cảnh nước ta, để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc cần chấn chỉnh, đổi mới và phát huy có hiệu quả khu vực KTNN, làm tốt vai trò chủ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy các TPKT khác cùng phát triển, tập trung cố gắng của DNNN vào những khâu then chốt như kết cấu hạ tầng, những công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm…cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và của toàn xã hội”. (Văn kiện hội nghị lần thứ VII ban chấp hành trung ương - khoá VII). III. Những giải pháp cơ bản phát huy vai trò chủ đạo của KTNN Những thành tựu mà TKNN đã đạt được trong những năm qua: Thực tiễn cho thấy đến nay KTNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta, nhất là các ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, bưu chính viễn thông, đường sắt, hàng không …KTNN cũng đóng góp một phần đáng kể vào tỉ trọng GDP trên 40% hàng năm và là lực lượng chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân sách cho NN gần 60%. Trong công cuộc đổi mới kinh tế, KTNN đang từng bước đổi mới. Về cơ cấu kinh tế đã có thay đổi lớn, tổng sản phẩm xã hội của KTNN giảm từ 37% năm 1998 xuống 34.5% năm 1990; thu nhập quốc dân giảm từ 28% xuống 27%; tổng sản phẩm công nghiệp lại tăng từ 56.6% lên 57%; khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng từ 68% lên 72%. Trong việc thực hiện cơ chế mới, một số cơ sở KTNN đã chủ động xác định và thay đổi phương thức kinh doanh, tìm thị trường đầu ra, tạo thêm nguồn vốn đi vay, trình độ kỹ thuật công nghệ đã được đổi mới… Nhờ đó, các cơ sở KTNN trung ương vẫn phát triển và kinh doanh có lãi. Chẳng hạn, năm 1991 sản xuất nói chung của cả nước gặp nhiều khó khăn nhất, nhưng sản xuất của các doanh nghiệp NN do trung ương quản lý lại tăng 15.6% so với năm 1990, trong đó, Bộ công nghiệp nặng tăng 32.5%, Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm tăng 26%, nhiều sản phẩm quan trọng tăng đáng kể như dầu thôtăng 42.5%, thép cán tăng 42.5%, xi măng tăng26.7% … Do yêu cầu của thời kỳ đổi mới, từ năm 1989 thực hiện chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp NN chúng ta đã mạnh dạn cắt giảm một lượng đáng kể doanh nghiệp hoạt động trong KTNN nhưng không đem lại hiệu quả kinh tế từ khoảng 12.000 năm 1990 xuống còn 5340 vào tháng 8 năm 2000. Nhờ đó, quy mô vốn tự có và vốn ngân sách cấp cho các cơ sở doanh nghiệp tăng lên; các doanh nghiệp có thêm vốn đầu tư, hiện đại hoá máy móc thiết bị, giúp cho năng suất lao động nâng cao đem lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời, sau khi sắp xếp lại tổ chức sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nhiều doanh nghiệp đã chủ động sáng tạo tiếp cận với thị trường xã hội và đã đứng vững, sản xuất kinh doanh có lãi, nguồn thu nộp cho ngân sách NN chiếm 61%(1) (1) Báo cáo của Bộ tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu, tháng 3.1993 Những hạn chế tồn đọng Có một thực tế khó phủ nhận đó là, TPKT nào cũng có những khuyết tật của nó. Trong những năm qua thành phần KTNN đã có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân nhưng nó cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm cần phải được xem xét và khắc phục: Trước hết, do chủ quan, duy ý chí và nóng vội đi lên CNXH nên chúng ta đã mở rộng nền KTNN quá tải và quá khả năng điều hành của các cấp các ngành., vượt quá yêu cầu khách quan của nền kinh tế và gây khó khăn cho trong việc điều hành quản lý. Hiện nay trên thực tế đã có một số cơ sở kinh tế quốc doanh NN phải ngừng sản xuất vì chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế quá thấp không đáp ứng yêu cầu của thị trường, thậm chí có loại không có nhu cầu sử dụng. Một biểu hiện tiêu cực của KTNN là nền tài chính xí nghiệp tồi tệ, do quy mô vốn nhỏ nên nhìn chung các doanh nghiệp NN đang đối mặt với tình trạng thiếu vốn để sản xuất - kinh doanh. Thực tế vốn chỉ hoạt động khoảng 80%, số còn lại ở trong tình trạng nằm chết. Tình trạng thiếu vốn làm cho doanh nghiệp NN không có khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị, nên hàng hoá sản xuất ra kém tính cạnh tranh. Hậu quả của việc hành lập tràn lan các xí nghiệp quốc doanh dẫn đến sẽ phải có một bộ phận phải bị giải thể. Từ năm 1990 đến năm 2000 khu vực KTNN đã cắt giảm gần một nửa bộ phận xí nghiệp tương đương 6000 lao động, số lượng này trở nên thất nghiệp và do đó sẽ làm phát sinh nhiều tiêu cực khác, tệ nạn xã hội nảy sinh trong khi NN chưa có chính sách giải quyết phù hợp .Cơ cấu KTNN tuy có tiến bộ nhưng về cơ bản vẫn mất cân đối lớn về cơ cấu giữa các ngành trong nội bộ KTNN,điều đó thể hiện ở chỗ tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, xây dựng cơ bản, bưu chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không, đường bộ hiện chiếm từ 60% trở lên, có ngành còn chiếm tới 100%. Điều đó có nghĩa là tỷ trọng sản phẩm của kinh tế tư nhân còn thấp, thậm chí còn thiếu vắng trong một số ngành sản xuất hàng hoá thông thường cho cuộc sống của nhân dân. Nhiều bộ phận doanh nghiệp của KTNN gặp nhiều khó khăn khi chuyển sang thực hiện cơ chế mới, như thiếu thị trường tiêu thụ, thiếu vốn, kinh doanh thua lỗ kéo dài. Tài sản và vốn của NN giao cho doanh nghiệp không được bảo toàn và phát triển, năng lực sản xuất không được duy trì gây nhiều lãng phí, hư hỏng.Tình trạng nợ nần dây dưa, khê đọng kéo dài và mất khả năng thanh toán nghiêm trọng. Theo đánh giá của Ban thanh toán nợ trung ương thì số nợ lên đén 8.000 tỷ đồng, trong dó 60% là của KTNN. Bộ phận đội ngũ cán bộ trong các doanh nghiệp NN đa số từ cơ chế cũ chuyển sang điều hành xí nghiệp trong cơ chế mới nên thiếu tác phong công nghiệp, thiếu kinh nghiệm quản lý cũng như kiến thức, trình độ năng lực của một nhà doanh nghiệp giỏi. Nguyên nhân của những hạn chế: Những nguyên nhân hoạt động kém hệu quả của KTNN có thể khai quát như sau: Nhà nước ít vốn, song lại đầu tư dàn trải, chủ yếu là giữ cho doanh nghiệp tồn tại, chứ chưa đủ sức phát triển và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Chế độ phân phối trong các xí nghiệp của KTNN không phù hợp với kết quả sản xuất kinh doanh, không có sự gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích vật chất và trách nhiệm vật chất với năng suất lao động do đó không khuyến khích được sản xuất. Tuy chính phủ là người chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng sự nắm bắt tình hình, điều hành quản lý không có hiệu quả cao, không có người chăm lo bảo toàn và phát triển vốn và không có ai chịu trách nhiệm trực tiếp khi mất mát, thua lỗ. Cán bộ quản lý chủ chốt thiếu tiêu chuẩn lãnh đạo, thiếu trách nhiệm trước tập thể cũng như trước cơ quan Nhà nước. Nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp NN, hiệu quả sản xuất không cao là do sự ỷ lại vào Nhà nước, toàn bộ nguồn vốn, kế hoạch phát triển do NN đặt ra nên sự sáng tạo, năng động của doanh nghiệp mất hẳn. Bên cạnh đó vị trí độc quyền đã làm mất đi động lực quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các xí nghiệp NN, ….Sự độc quyền đã làm khu vực KTNN trở nên trì trệ, kém năng động trong việc cải tiến, đổi mới thiết bị, công nghệ và sản phẩm, tự nó trở thành nhân tố kìm hãm hoạt động của xí nghiệp. Nhà nước chưa có chính sách phù hợp trong đào tạo lớp nhân công kỹ thuật tay nghề cao trong các lĩnh vực các ngành nghề cần chuyên môn, mà chỉ chăm lo cho bộ máy quản lý, dẫn đến tình trạng “ nhiều thầy ít thợ”. Đặc biệt chưa có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng các nhà doanh nghiệp về luật pháp, về kiến thức kinh doanh. Trình độ trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ sản xuất của khu vực KTNN nói chung là lạc hậu, chắp vá, công suất sử dụng máy móc không cao, năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong nhiều năm, KTNN đã được bao cấp. Trong
Luận văn liên quan