Mỗi một con người Việt Nam đều có một lòng tự hào về dân tộc rất
mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước,
sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho
tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất
nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường
kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy
là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái
giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người,
chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông
nghiệp 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày
cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống
1,5%.Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té
tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc
phục được những khó khăn trước mắt. Những tưởng đó là con đường đúng
đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng
hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc
họp lần thứ VI của Đảng, quốc hội quyết định chuyển hướng nền kinh tế từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phải
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi
nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng
ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ của đề án này tôi
xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà
tuổi trẻ cần làm để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cường quốc
trên thế giới.
30 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1809 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một con người Việt Nam đều có một lòng tự hào về dân tộc rất
mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước,
sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho
tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất
nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường
kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy
là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái
giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người,
chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông
nghiệp 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày
cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống
1,5%...Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té
tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc
phục được những khó khăn trước mắt. Những tưởng đó là con đường đúng
đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng
hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc
họp lần thứ VI của Đảng, quốc hội quyết định chuyển hướng nền kinh tế từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phải
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi
nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng
ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ của đề án này tôi
xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà
tuổi trẻ cần làm để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cường quốc
trên thế giới.
2
I.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Nền kinh tế thị trường là gì?
- Nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà trong đó hầu hết
các quan hệ kinh tế được thực hiện dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, với
nhiều thành phần tham gia, vận động theo cơ chế thị trường.
- Như vậy, nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà các thành
phần của thị trường có mối quan hệ thông qua hàng hoá, dịch vụ và thông
qua các hoạt động trao đổi. Tất cả các quan hệ đó được điều tiết bằng một cơ
chế tự điều tiết của thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó.
Nói một cách cụ thể hơn về cơ chế tự điều tiết của thị trường đó là một hệ
thống hữu cơ của sự thích ưngs với nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố
giá cả, cung-cầu, cạnh tranh...trực tiếp phát huy trên thị trường để điều tiết.
Thực khó có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm & khuyết tật của cơ
chế thị trường. Tuy nhiên, cơ chế thị trường có những ưu điểm nổi bật sau:
- Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế & tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh
tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã
hội.
-Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa
khối lượng & cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng cho cá nhân & cho sản xuất.
- Cơ chế thị trường mềm dẻo & có khả năng thích nghi cao hơn khi
những điều kiện kinh tế thay đổi.
Chính vì vậy, cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản
của tổ chức kinh tế. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự
hoàn hảo. Nó còn có cả những những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Có
thể chỉ ra một số khuyết tật dưới đây của cơ chế thị trường:
- Hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ hoàn hảo của
cạnh tranh. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới
phân bố & sử dụng có hiệu quả nhất đầu vào & đầu ra của sản xuất. Cạnh
tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm.
-Trong cơ chế thị trường, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là
lợi nhuận tối đa. Vì vậy, họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô
nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu.
3
- Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo,
tác động xấu đến đạo đức & tình người.
- Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những
thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ.
2. Tính quy luật của sự hình thành nền kinh tế thị trường:
- Phát triển là một sự thay đổi về chất, như vậy trước đó chúng ta phải
có sự tích luỹ về lượng. Hay nói cách khác, chúng ta phải hội đủ các điều
kiện thì mới có sự thay đổi đó được. Như vậy, muốn hình thành nền kinh tế
thị trường , chúng ta cũng phải hội đủ các quy luật hình thành của nó. Đó là:
+ Sự phân công lao động xã hội: trước đây trong nền kinh tế tự cung
tự cấp, mỗi một thành viên của nền kinh tế đều tự sản xuất ra các mặt hàng
theo nhu cầu và khả năng của mình. Tức là, một người nông dân muốn có
gạo ăn, áo mặc...thì anh ta phải tự sản xuất ra các thứ đó, không ai cung cấp
cho anh ta. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của nền
kinh tế quan hệ với nhau thông qua hàng hoá. Tức là sản phẩm của người
này cần thiết cho người kia và có thể trao đổi được. Như vậy tức là phải có
người sản xuất sản phẩm này và có người sản xuất dản phẩm kia. Đó chính
là sự phân công lao động xã hội. Nếu nền kinh tế không có sự phân công lao
động rõ ràng thì sẽ không có hàng hoá và không hình thành nền kinh tế thị
trường.
+ Quy luật hình thành thứ hai của nền kinh tế thị trường là sự tồn tại
độc lập và không phụ thuộc vào nhau giữa những doanh nghiệp , những
người sản xuất hàng hoá. Có nghĩa là trong nền linh tế thị trưòng, việc sản
xuất cái gì, như thế nào, cho ai là việc riêng của mỗi người, mỗi doanh
nghiệp. Họ là những người sản xuất độc lập. Những doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá có thể là thuộc quyền sở hữu tư nhân, hay thuộc quyền sở hữu tập
thể hoặc thuộc quyền sở hữu của nhà nước... nhưng chúng vẫn là những
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập. Đối với xã hội thì lao động của mỗi
doanh nghiệp (dù là thuộc hình thức sở hữu nào) vẫn là lao động tư nhân, và
chỉ khi nào bán được hàng hoá thì lao động tư nhân đó mới được xã hội thừa
nhận và trở thành một bộ phận thực sự của lao động xã hội. Với phân công
lao động xã hội, lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất lao động xã hội,
một bộ phận của toàn bộ lao động xẫ hội. Sự phân công lao động xã hội tạo
nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất, họ làm việc với nhau
thông qua trao đổi hàng hóa. Còn với tư cách là doanh nghiệp thì lao động
sản xuất hàng hoá của họ lại mạng tính chất tư nhân. Sự mâu thuẫn giữa lao
4
động tư nhân và lao động xã hội được giải quyết khi sản phẩm được trao đổi
dưới hình thức hàng hoá. Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều chế độ xã hội
khác nhau, dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau, chứ không chỉ dựa
trên chê độ sở hữu tư nhân, miễn là những người, doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá là độc lập và không phụ thuộc vào nhau.
+ Thứ ba đó là sự tồn tại của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nếu như chúng
ta có được hai điều trên nhưng quan hệ tiền tệ không được thừa nhận thì sẽ
không xuất hiện nền kinh tế thị trường. Ta có thể thấy rõ trong nền kinh tế
hàng hoá tập trung ở nước ta, chúng ta có được sự phân công lao động xã
hội, chúng ta có sự tồn tại độc lập của các nhà sản xuất hàng hoá, nhưng lúc
này quan hệ hàng hoá tiền tệ không được chấp nhận. Sản phẩm lúc này được
đem ra phân phối, kết quả là không xuất hiện thị trường. Một nền kinh tế thị
trường mà không xuất hiện thị trường thì sẽ như thế nào?
3. Các nhân tố của thị trường:
a) Hàng hoá:
- Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn một nhu cầu
nhất định nào đó của con người, đồng thời nó được sản xuất ra nhắm đem
bán (hay trao đổ trên thị trường). Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, sản
phẩm của lao động trở thành hàng hoá khi nó trở thành đối tượng mua-bán
trên thị trường.
- Trong xã hội hiện đại, hàng hoá có thể là vật thể (hữu hình), hay là
phi vật thể( hay hàng hoá dịch vụ). Đối với bất kỳ một hàng hoá nào, chúng
đều có hại thuộc tính sau:
+ Giá trị sử dụng:
- Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm( tính hữu ích) coá thể thoả
mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người. Mỗi hàng hoá đều có một hay
một số công dụng nhất định để thoả mãn nhu cầu của con người. Giá trị sủ
dụng được phát hiện dần dần nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lực
lượng sản xuất. VD: Than đá, lúc đầu loài người chỉ biết với công dụng làm
chất đốt, nhưng sau này nó được dùng vào ngành công nghiệp hoá chất...Xã
hội ngày càng tiến bộ, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì số lượng
giá trị sử dụng ngày càng phong phú, đa dạng chất lượng cao.
- Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật quy định
và là nội dung vật chất của của cải. Do đó, giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.
5
- Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hoá, nhưng nó khong phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuât, mà là cho người khác, tức là cho
xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sủ dụng đồng thời là vật mang
giá trị trao đổi.
+ Giá trị:
- Giá trị trước hết biểu hiện ra bên ngoài là quan hệ tỷ lệ về số lượng
giữa các giá trị sủ dụng khác nhau hay còn gọi là giá trị trao đổi. VD: 1 m
vải=5kg thóc. Sở dĩ, vải và thóc là hai hàng hoá khác nhau, mà vẫn có thể
trao đổi cho nhau là vì giữa chúng có một cơ sở chung. Đó là hao phí lao
động xã hội để tạo ra 2 sản phẩm đó.
- Vậy hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá
là cơ sở để trao đổi hàng hoá, tạo ra giá trị của hàng hoá. Hao phí lao động
xã hội để tạo ra sản phẩm được lượng hoá bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Tức là, thời gian cần thiết để sản xuất một
hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường, trình độ kỹ thuật bình
thường.
- Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị: giá trị là cơ sở, nội
dung của giá trị trao đổi. Giá trị là phạm trù lịch sử, là phạm trù riêng có của
sản xuất hàng hoá.
+ Mối quan hệ giữa hại thuộc tính:
- Giá trị và giá trị sử dụng là 2 thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất
với nhảutong cùng một hàng hoá. Người sản xuất làm ra để bán, mục đích
của họ là giá trị. Nhưng cái mà họ có là giá trị sử dụng, họ chú ý tới giá trị sủ
dụng cũng là vì mục đích là giá trị mà thôi. Người mua, họ quan tâm tới giá
trị sử dụng, nhưng nếu muốn có giá trị sử dụng đó, họ phải trả giá trị cho
người sản xuất. Tức là họ phải thực hiện giá trị thị trường thì mới chi phối
giá trị sử dụng.
b) Tiền tệ:
- Tiền tệ về bản chất là một hàng hoá được tách ra làm vật ngang gía
chung cho các hàng hoá khác. Tiền tệ thể hiện lao động xã hội và biểu hiện
mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Cho tới ngày nay vàng
vẫn được coi là hàng hoá ngang giá chung, nhưng nó ít được lưu thông mà
được thay bằng các loại tiền giấy, kim loại khác rẻ hơn đại diện cho những
lượng vàng nhất định.
- Vậy tại sao lại xuất hiện tiền tệ? Chúng ta nhìn lại thời kỳ mà nền
kinh tế ở giai đoạn tự cung tự cấp. Đây là một thời kỳ nền kinh tế cực kỳ
6
kém phát triển, các nhu cầu của con người luôn không được đáp ứng đầy đủ
do sự hạn chế về năng lực sản xuất của con người. Người nông dân muốn có
vải may quần áo nhưng lại không có khả năng sản xuất vải, nhưng lại thừa
gạo. Trong khi đó người có vải lại thiếu gạo và thừa vải. Và họ trao đổi cho
nhau. Dần dần, các mặt hàng trao đổi trở nên phong phú hơn, nhưng cũng
xuất hiện khó khăn. Những khó khăn đó là: người nông dân muốn đổi gạo
lấy vải nhưng người có vải lại không muốn có gạo. Từ đó họ hình thành nên
một vật ngang giá chung. Tức là, trong một phạm vi nhất định, một vật được
mọi người công nhận và có thể dùng để trao đổi mọi thứ hàng hoá. Tuy
nhiên, khi kinh tế phát triển thì sự hạn hẹp về phạm vi địa lý của vật ngang
giá chung bắt đầu gây khó khăn và tiền tệ ra đời. Nhìn vào lịch sử phát triển
của tiền tệ, ta thấy sự ra đời của nó là tất yếu khách quan để đáp ứng được sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Với nhiều đặc tính phù hợp được cả thế
giới công nhận, vàng là kim loại được lựa chọn.
- Từ khi xuất hiện, tiền tệ đã góp phần rất lớn vào sự phát triển cả kinh
tế, nó thể hiện thông qua 5 chức năng của tiền tệ:
+ Tiền tệ là thước đo giá trị: ngày nay muốn tiêu dùng bất cứ hàng hoá
nào chỉ cần chúng ta có tiền đều có thể mua được dễ dàng. Đây chính là chức
năng cơ bản của tiền. Như vậy tiền cũng phải có giá trị của nó. Giá trị của
tiền là do lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất vàng quyết định. Trên
thị trường, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Giá cả
lên xuống xung quanh giá trị và do quan hệ cung cầu chi phối và tiêu chuẩn
giá cả không phụ thuộc vào giá trị của vàng.
+ Chức năng là phương tiện lưu thông
- Trong chức năng này thì tiền làm môi giới trong quá trình lưu thông
hàng hoá. Chức năng này giúp tách rời hành vi mua và bán. Tức là người ta
có thể mua ở một nơi vào một thời điểm nào đó và bán ở một nơi khác vào
một thời điểm khác. Để thực hiện chức năng này phải có tiền thực tế. Trong
thời kỳ đầu người ta dùng nén vàng bạc, nhưng dần dần được thay thế bằng
tiền đúc rồi đến tiền giấy. Trong quá trình lưu thông tiền đúc, giấy bị hao
mòn nhưng giá trị mà nó đại diện là không thay đổi. Trước đây, lợi dụng tính
đại diện của tiền đúc và giấy, nhà nước không ngưng sản xuất nhiều tiền loại
này làm giảm giá trị đồng tiền, gây ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngày
nay, nhà nước luôn kiểm soát giá trị của tiền để bình ổn nền kinh tế.
+ Chức năng là phương tiện cất trữ:
7
- Tiền là vật ngang giá chung, nó có thể dùng để trao đổi mọi thứ. Vì
vậy có thể nói rằng tiền là đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể được cất
trữ. Tuy nhiên không phải là tiền nào cũng có thể cất trữ mà chỉ có tiền đầy
đủ giá trị như vàng mới thực hiện được chức năng này. Nếu hàng hoá nhiều
thì tiền đã cất trữ sẽ được tung ra thị trường, nếu hàng hoá khan hiếm thì
tiền lại được cất trữ.
+ Chức năng là phương tiện thanh toán:
- Với chức năng thanh toán tiền dùng để trả lương, nộp thuế, mua bán
hàng hoá. Do để thuận lợi trong kinh doanh, việc mua và bán được tách rời
và chức năng thanh toán của tiền ở đây càng thể hiện rõ tầm quan trọng. Từ
chức năng thanh toán của tiền và nhu cầu thanh toán làm xuất hiện một loại
tiền mới là tín dụng dưới các hinh thức như giấy bạc ngân hàng, séc, trái
phiếu...
+ Chức năng tiền tệ thế giới:
- Do được toàn bộ thế giới công nhận về giá trị của tiền, nên thế giới
trở thành một thị trường chung. Những nước khác nhau có thể mua bán
những sản phẩm mà đất nước mình cần. Trong chức năng này vàng là
phuơng tiện thanh toán quốc tế.
Các chức năng của tiền tệ liên quan mật thiết với nhau. Sự phát triển
của các chức năng này phản ánh sự phát triển của sản xuất hàng hoá và
những mâu thuẫn của nó.
c) Giá cả:
- Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng triền của giá trị thị trường và
giá cả sản xuất. Giá cả thị trường được hình thành thông qua sự cạnh tranh
giữa các nhà kinh doanh, sản xuất trong cùng một nghành, cùng một loại
hàng hoá, nhằm giành được điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi
nhất để thu được lợi nhuận tối đa. Song trên thị trường, mỗi loại hàng hoá
đều phải bán theo một giá thống nhất. Bởi vì, giá cả thị trường dựa trên cơ sở
giá trị thị trường của hàng hoá. Giá trị thị trường của hàng hoá là giá trị trung
bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó hay là
giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung
bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số sản phẩm
của khu vực này. Nghĩa là, nếu đại bộ phận lượng hàng hoá được sản xuất ra
trong những điều kiện xã hội trung bình, còn một bộ phận nhỏ được sản xuất
trong điều kiện kém và một lượng nhỏ khác trong điều kiện tốt, thì giá trị thị
trường của hàng hoá do giá trị của lượng hàng hoá ở khu vực điều kiện trung
8
bình quyết định. Hay nều đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều
kiện kém (hoặc điều kiện tốt) thì giá trị thị trường của hàng hóa lại do hàng
hoá ở khu vực điều kiện kém (hoặc điều kiện tốt) quyết định.
- Dù là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, nhưng
không có nghĩa là hai đại lượng đó phải bằng nhau. Giá cả thị trường của
hàng hoá luôn xoay quanh giá trị thị trường của nó. Bởi vì giá cả thị trường
còn phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu của hàng hoá trên thị trường:
Cung là số lượng hàng hoá mà người cung sẵn sàngvà có khả năng
đưa ra thị trường ở mỗi một mức giá khác nhau, tại mỗi một thời gian khác
nhau. Cung được quyết định bởi khối lượng sản phẩm xã hội đã và sẽ sản
xuất ra, tỷ suất hàng hoá và khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Cầu là khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng sẵn sàng và có khả
năng mua trên thị trường ở mỗi mức giá khác nhau, trong mỗi một thời gian
khác nhau.
Khi số lượng cung của một hàng hoá phù hợp với nhu cầu xã hội thì
tổng số giá trị thực của hàng hoá bằng tổng số giá trị thị trường của nó. Còn
nếu số lượng hàng hoá cung mà lớn hơn nhu cầu của xã hội thì tổng số giá trị
thực của hàng hoá lớn hơn tổng giá trị thị trường của nó. Ngược lại khi mà
số lượng cung nhỏ hơn cầu thì tổng số giá trị thực của hàng hoá sẽ nhỏ hơn
tổng giá trị thị trường
d) Lợi nhuận:
Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, được so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước mang hònh thái chuyển hoá
là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư. Vậy giá trị
thặng dư từ đâu sinh ra?
- Lợi nhuận là giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước
được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức
chuyển hoá là lợi nhuận.
- Lợi nhuận được đo bằng (g1) sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nên sau khi bán hàng hoá tư bản không bù
đắp được số tư bản ứng trước mà còn thu được lợi nhuận.
- Lợi nhuận là mục tiêu quan trọng để phấn đấu của mỗi doanh nghiệp,
là động lực để các nhà sản xuất nâng cao năng suất lao động, đổi mới khoa
học công nghệ, thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
4. Các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường
a) Quy luật giá trị:
9
Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế rất quan trọng của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị quy định mặt chất và sự vận động về mặt
lương của giá trị hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và trao đỏi phải dựa
trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã họi cần thiết.
Nghĩa là: đối với sản xuất, nó yêu cầu hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra
hàng hoa phải phù hợp với hao phi lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù
hợp với mức hao phi mà xã hội có thể chấp nhận được. Còn trong trao đổi
hàng hoá, nó yêu cầu là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá rị biểu hiện sự vân động của nó thông qua sự biến đổi của
giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc
vào giá tri, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động của quan hệ
cung-cầu, tình trạng độc quyền, và một số tác động khác, giá cả thị trường có
thể tách rời giá trị, lên xuống xoay quanh giá trị. Nhưng cuối cùng, tổng giá
cả phù với tổng giá trị của chúng.
Quy luật giá trị có những tác dụng sau:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Người sản xuất hàng hoá
sản xuât cái gì, như thế nào, cho ai, là do họ quyết định. Mục đích duy nhất
của họ là thu được nhiều lãi nhất. Dựa vào sự biến động của giá cả thị
trường, người sản xuất biết được mặt hàng nào đang bán chạy v