Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cốt lõi của chính sách đổi mới
toàn diện nền kinh tế Việt nam được chính thức bắt đầu kể từ Đại hội lần thứ VI Đảng
Cộng sản Việt nam (1986). Với mục tiêu hàng đầu là giải phóng sức sản xuất, động
viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá,
nâng cao hiệu lực kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải
là ”quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân
dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện
cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. ( Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB sự thật, Hà Nội)
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2601 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
đặt vấn đề
Qua 15 năm đổi mới thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH và Chiến lược ổn định đất nước 10 năm ( 1991-2000) dưới sự lãnh đạo
của Đảng, toàn Đảng và toàn dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cốt lõi của chính sách đổi mới
toàn diện nền kinh tế Việt nam được chính thức bắt đầu kể từ Đại hội lần thứ VI Đảng
Cộng sản Việt nam (1986). Với mục tiêu hàng đầu là giải phóng sức sản xuất, động
viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá,
nâng cao hiệu lực kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải
là ”quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân
dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện
cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. ( Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB sự thật, Hà Nội).
Nội dung
I. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
1. Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó.
1.1 Thế nào là kinh tế thị trường.
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và
đới sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hôị, hai thời
đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và
thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng, là đặc trưng của chủ nghĩa tư
bản. Đó là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, nó đã từng tồn tại và phát
triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát
triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ
nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Giai
đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của
giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do Nhà nước không can
thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại.
Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng
giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường
thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu Nhà nước, các chương trình khuyến
khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín
dụng, tiền tệ, … để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa Chính phủ và
thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự phát triển có hiệu quả của
những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá tự phát sẽ “hàng ngày,
hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của VI.Lê-nin) và sự phát triển của
kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển cuả
chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh
tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy
luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và
phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là
phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường
theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất kinh doanh không ngừng đổi mới ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường
là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội phát triển khoa học công nghệ mới và
ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Sự phát triên của kinh tế thị trường
gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học kỹ thuật,
của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khẳng định rằng: giai đoạn kinh tế hàng hoá
giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; giai đoạn kinh
tế thị trường tự do gằn liền với nền văn minh công nghiệp và kỹ thuật cơ khí; giai đoạn
kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ và kỹ thuật vi đIện tử tin
học.
1.2 Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường.
Do kinh tế thị trường là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá và mọi yếu tố
của sản xuất đều được thị trường hoá cho nên kinh tế thị trường có những đặc trưng
chủ yếu sau:
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh tế tự bù đắp
những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình,
được tự do liên kết, tự do kinh doanh theo luật định. Kinh tế hàng hoá không bao dung
hành vi bao cấp nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động.
Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao của năng
suất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, sự phát triển của sản xuất và
thị trường.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ
cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ.
Bốn la, cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường, có nhiều hình thức
cạnh tranh phong phú vì mục tiêu lợi nhuận.
Năm là, kinh tế thị trường là kinh tế mở.
2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN và yêu cầu của nó.
2.1 Thế nào là định hướng XHCN.
Định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đã được báo cáo
chính trị tại Đại hội VIII chỉ rõ vơí các nội dụng sau:
Một là, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần lấy việc giải phóng sức sản xuất động viên tối đa mọi nguồn lực bên
trong và bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hoá, hiên đại hoá, nâng cao hiệu quả
kinh tế và xã hội, cải thiện đời sông của nhân dân là mục tiêu hàng đầu trong việc
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Hai là, chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh
tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với
kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các
nhà kinh tế tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả ở trong và ngoài
nước.
Ba là, xác lập củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền
sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Bốn là, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các
nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội. Thừa nhận sự tồn tại lâu dài các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để
biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập phân
phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập, khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với
xoá đói , giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ
phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
Năm là, tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước khai thác triệt để vai trò tích cực
đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường. Đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật của mỗi doanh
nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế.
Sáu là, giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong
quan hệ kinh tế với bên ngoài.
2.2 Những nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có những nội dung cơ bản sau:
- Mục đích của nền kinh tế thị trường là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN, nâng cao đời sống nhân dân.Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên
cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng
XHCN là thúc đaảy lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công
bằng xã hội.
- Có nhiều hình thức sỡ hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững
chắc. Chế độ sở hữu cộng cộng(công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ từng bước
được xác lập và chiếm hữu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước
XHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách sử dụng cơ chế thị
trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực, bảo vệ lợi ích người lao động.
- Thực hiện phân phối chủ yếu kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền và đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng từng
bước phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân
trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất
nước.
2.3 Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
Nghiên cứu dưới góc độ quân điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng một mặt kinh tế
thị trường làm cho cạnh tranh kết thúc đẩy khoa học phát triển, tiếp thu được những
công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cũng làm cho hàng loạt các xí nghiệp,
doanh nghiệp bị phá sản.
Về mặt tích cực.
Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết đoán có được
kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại của mình nhằm.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất.
+ Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
+ Kích thích nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, hàng hoá dịch vụ dồi
dào và luôn được cải tiến.
+ Tăng tính năng động và điều chỉnh của nền kinh tế.
+ Thúc đẩy tiêu dung đổi mới công nghệ.
+ Nâng cao năng lực quản lý.
Về mặt tiêu cực và hạn chế.
+ Phân hoá giầu nghèo- phân hoá giai cấp.
+ Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp riêng lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng
chu kỳ, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp.
+ Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa luôn gắn liền với những thủ đoạn không lành
mạnh: đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường truyền thống và các
chuẩn mực đạo đức xã hội.
+ Giá cả hình thành tự do trên thị trường tự nó không phải lúc nào cũng phản ánh đúng
quan hệ giá trị do: độc quyền của những doanh nghiệp lớn và nước lớn trong việc
khống chế mức lưu thông và giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá.
+ Đạo đức và bản sắc dân tộc.
3. Vai trò của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với công cuộc xây dựng
XHCN ở Việt Nam.
Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta
trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang
trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện
công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm
những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh
sự gia tăng về lượng còn bao hàm cả sự thay đổi về chất. Phát triển là nâng cao phúc
lợi nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về
xã hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Đảm bảo các quyền chính
trị và công dân là mục tiêu phát triển rộng lớn. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội
của C.Mác là một thành tựu của khoa học loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động
tổng quát của lịch sử nhân loại và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, mà giai đoạn phát triển thấp là CNXH. CNXH không đối lập với phát
triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của sự phát triển. Nó là
cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân
lao động, của toàn xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và
văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giầu có và sự thống trị của tư bản của một số ít
những người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất TBCN, là sự phát triển
cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giầu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân
lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất chủ nghĩa là sự phát
triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhằm giả phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giầu có cho nhân dân
lao động. Vì vậy sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát
triển vì sự giầu có, nước mạnh, mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại
là thiết lập một tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nội dung công bằng và văn minh.
Nhà nước XHCN của dân do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là đIều quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó. Kinh tế thị trường định
hướng XHCN là sự tìm tòi, thể hiện mới cả về lý luận và thực tiễn của CNXH trong
thời đại hiện nay.
II. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong những
năm đổi mới thực trạng và phương hướng giải quyết.
1.Quan điểm của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và khuyến khích phát
triển với bất cứ giá nào. Nếu tuyệt đối hoá nền kinh tế thị trường thì sẽ rơi vào một sai
lầm nguy hiểm từ phía khác. Bởi vì kinh tế thị trường vốn có những hạn chế, khuyết
tật, có tính tự phát bướng bỉnh và sự cạnh tranh quyết liệt; nó là môi trường thuận lợi
để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua, việc áp dụng cơ
chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực chúng ta phải trả giá không ít hiện tượng
tiêu cực như: lối làm ăn chạy theo lợi nhuận đơn thuần đãn đến lừa đảo, hối lộ, chốn
thuế, thương mại hoá tràn lan, làm cho giá trị đạo đức tinh thần đảo lộn và xuỗng cấp
nhanh, lối sống ích kỷ thực dụng thấp hèn có nguy cơ tái phát ...
Bản chất chế độ mới không cho phép tồn tại những hiện tượng như vậy. Đảng ta
vạch rõ nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang áp dụng phải là nền kinh tế có sự
quản lý, hướng dẫn, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN. Sự quản lý của
nhà nước đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển đúng đắn, chăm lo lợi ích của nhân
dân, vì con người, do con người, thực hiện công bằng xã hội, đồng thời tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đảng chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng
không để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng, mà phải lãnh đạo, hướng dẫn,
điều tiết, phát huy mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân
lao động, vì một xã hội công bằng văn minh. Đảng Cộng sản – là Đảng phấn đấu cho
lý tưởng XHCN và Cộng sản chủ nghĩa, thực sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp
cộng nhân và nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất
đảm bảo định hướng XHCN của kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự phát triển của
đất nước ta. Vả chăng, trong suốt thời gian qua chính Đảng ta chứ không ai khác đã đề
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mơí ở Việt Nam. Trách nhiệm của Đảng là phải lãnh
đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam vì sự phồn vinh của
đất nước, vì cuộc sống hạnh phúc công bằng của toàn dân.
2. Thực trạng và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
trong những năm đổi mới.
2.1 Giai đoạn từ 1986 - 1990.
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta trong tình trạng thấp kém, sản xuất nhỏ, tự
cung, tự cấp. Trình độ trang thiết bị trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế lạc
hậu, năng suất lao động thấp kém … Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp, khủng
hoảng kinh tế diễn ra nhiều năm với đặc trưng: sản xuất chậm không ổn định, lạm phát
lên đến 774,7% năm 1986, trật an toàn không được đảm bảo, tham nhũng …Trước
tình hình đó tháng 12-1986 Đại hội VI đã thừa nhận “ Đó là một sai lầm chủ quan, duy
ý trí, không nắm vững quy luật khách quan và đã đề ra những chủ trương phát triển
sản xuất hàng hoá nhiều thành phần xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp,
sử dụng đúng đắn quan hệ hàng – tiền, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện
có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước … để phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất “. Đây là bước tiến quan trọng trong tư duy kinh tế của Đảng ta càng khẳng
định rằng: không thể có thắng lợi của công cuộc đổi mới nếu xa rời tư tưởng cách
mạng, học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng
dẫu sao ĐạI hội VI chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và nói
đến phát triển hàng hoá còn dè dặt, chưa bao quát hết các mặt của nó.
Phải đến hội nghị lần thứ 6 của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (tháng
3-1989) trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhấn mạnh: phát triển nền kinh tế hàng hoá có
kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH là vấn đề có ý nghĩa có chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh thần dân chủ về
kinh tế cơ chế thị trường … phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hoá và
chính sách kinh tế. Các nghị quyết sau Đại hội VI của Đảng, nhất là về phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần … đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi sâu vào
cuộc sống rất nhanh, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân,
làm cho nền kinh tế sống động hơn, các hoạt động kinh doanh, dịch vụ sôi động hơn,
bộ mặt thị trường thay đổi nhộn nhịp hơn. Có thể nói, một trong những thành tựu nổi
bật về đổi mới kinh tế trong những năm nay là chúng ta đã bước đầu chuyển được nền
kinh tế từ chỗ mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Điều này mọi người, mọi nhà đều cảm thấy được, bạn bè trên
thế giới thấy rất rõ. Ví dụ như: trong giai đoạn 1986 – 1990 đầu tư toàn xã hội trung
bình là 12,5% GDP, tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%, kim ngạch xuất khẩu bình
quân đạt 1,3 tỷ USD/năm, về lạm phát năm 1986 là 774,7% đến năm 1990 giảm xuống
còn 67,1% (nguồn: Tổng cục thống kê).
2.2 Giai đoạn từ 1991-2000.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát hơn vấn
đề kinh tế thị trường. Đại hội cho rằng phát triển “Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn cần thiết để
giải