Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền
kinh tế Việt Nam trong những thập niêm gần đây. Trong nền kinh tế thị trường
hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng
vững trên thương trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh
chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề
cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong
những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là
lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề
hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong
muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà
doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến
nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. ở nước ta hiện
nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục
tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm,
nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và
chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc
trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các
hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
48 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lạm phát và một số biện pháp khắc phục lạm phát trên thế giới và tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận Văn
" Lạm phát và một số biện pháp
khắc phục lạm phát trên thế giới và ở
Việt Nam"
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT ..............5
I. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT............................................................................... 5
1. Khái niệm................................................................................................................... 5
2. Phân loại lạm phát .................................................................................................... 6
3. Nguyên nhân của lạm phát..................................................................................... 10
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT............................................................................ 20
1. Lạm phát và lãi suất thị trường:............................................................................. 20
2. Lạm phát và thu nhập thực tế................................................................................. 20
3. Lạm phát và phân phối thu nhập. .......................................................................... 21
4. Tác động khác của lạm phát: ................................................................................. 22
III. NHỮNG BIỆN PHÁP KÌM CHẾ VÀ KHẮC PHỤC LAM PHÁT. ...............................22
PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LẠM PHÁT TRONG
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ..................................................... 22
I. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT ĐÃ XẢY RA CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI. .. 23
1. Lạm phát ở các nước Châu Mỹ Latinh:................................................................. 23
2. Siêu lạm phát của Đức 1921 - 1923:...................................................................... 24
3. Lạm phát ở các nước thuộc khối OCED: .............................................................. 26
4. Lạm phát ở các nước Châu Á: ............................................................................... 26
5. Lạm phát ở Pháp:.................................................................................................... 27
6. Lạm phát ở Mỹ: ....................................................................................................... 27
7. Lạm phát ở Việt Nam:............................................................................................. 28
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT ĐÃ THỰC HIỆN
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.................................................................................. 34
1. Thái Lan:................................................................................................................. 34
2. Nhật Bản: ................................................................................................................ 35
3
3. Mỹ: 35
4. Bốn con rồng Châu Á:............................................................................................ 35
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM -
NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC................................................................................... 39
1. Một số biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam: ..................................................... 39
2. Những thành tựu đạt được:.................................................................................... 43
KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền
kinh tế Việt Nam trong những thập niêm gần đây. Trong nền kinh tế thị trường
hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng
vững trên thương trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh
chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề
cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong
những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là
lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề
hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong
muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà
doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến
nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. ở nước ta hiện
nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục
tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm,
nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và
chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc
trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các
hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thể kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. ở nước ta lạm
phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề
của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế
4
hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế -
xã hội.
Bài viết này với đề tài: "Lạm phát và một số biện pháp khắc phục lạm phát
trên thế giới và ở Việt Nam"
5
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT
I. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT
1. Khái niệm
Lạm phát là hiện tượng vốn có của nền kinh tế sử dụng tiền tệ và là một hiện
tượng kinh tế phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Nó tồn tại ở cả những nước phát
triển và chậm phát triển, cả trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, suy thoái lẫn cả
trong thời kỳ hưng thịnh. Lạm phát ở một mức độ nhất định có thể là một biện
pháp phát triển nền kinh tế, làm tăng nhu cầu thúc đẩy các hướng đầu tư có lợi.
Song khi lạm phát vượt qua một thời gian nhất định thì nó trở thành một căn bệnh
gây nhiều tác hại cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy khi nghiên cứu về lạm
phát có rất nhiều trường phái.
Theo C.Mác: Lạm phát là sự tràn đầy các kênh lưu thông những tờ giấy bạc
thừa, gây nên sự mất giá của đồng tiền và sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân.
Theo Samelson: lạm phát xảy ra khi mức giá chung thay đổi. Khi mức giá
tăng lên được gọi là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được gọi là giảm phát. Vậy,
lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.
Theo Friedman và những nhà kinh tế khác: lạm phát là việc giá cả tăng nhanh
và kéo dài, lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ - lạm phát bao
giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện
lạm phát gọi là chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hoá cấu
thành tổng sản phẩm quốc dân: nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong
thực tế thường được thay thế bằng một trong hai loại chỉ số giá thông dụng khác:
chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá bán buôn (còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất).
Chỉ số giá cả tiêu dùng phản ánh sự biến động giá cả của một giỏ hàng hoá và
dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Công thức tính:
6
IP = ip . d
Trong đó:
IP : chỉ số giá cả của giỏ hàng
ip : chỉ số giá cả của từng loại hàng nhóm hàng trong giỏ
d : tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại nhóm hàng trong giỏ (với d=1)
Nó phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội.
Chỉ số bán buôn (giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động giá cả của đầu vào,
thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá chi phí tất
yếu sẽ tác động đến xu hướng giá cả hàng hoá thị trường.
Tỷ lệ lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô
và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát.
Công thức:
gP = ( Error! - 1 ) . 100
Trong đó:
gP : tỷ lệ lạm phát (%).
IP : chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu.
IP - 1 : chỉ số giá cả của thời kỳ trước đó.
Ví dụ:
Chỉ số giá cả của năm 1992 (so với năm 1982) là 300% (IP)
Chỉ số giá cả của năm 1991 (so với năm 1982)
Vậy, tỷ lệ lạm phát của năm 1992 là:
gP = ( Error! - 1 ) . 100 = 20%
2. Phân loại lạm phát
a. Theo khả năng định lượng.
Người ta thường chia lạm phát thành ba loại, tuỳ theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát như sau:
7
* Lạm phát một chữ số: là loại lạm phát nhỏ hơn 10% mỗi năm. Lạm phát ở
mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế, biến động
giá cả trong nền kinh tế chưa gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế chính trị, xã
hội hơn nữa tạo động lực phát triển kinh tế, thông thường loại lạm phát một chữ số
được xem là có thể chấp nhận được.
* Lạm phát hai chữ số: khi giá cả bắt đầu tăng đến hai chữ số mỗi năm, lạm
phát trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập, loại lạm phát này khi đã trở nên
vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
* Siêu lạm phát:
Ngoài lạm phát hai chữ số có thể còn một vài loại khác với các tên gọi như
lạm phát ba chữ số, lạm phát phi mã,... tuỳ theo quan điểm của các nhà kinh tế.
Tuy nhiên, hai loại lạm phát này đều có nét giống nhau nhất định và hoàn toàn có
thể đưa chúng vào dạng siêu lạm phát vì siêu lạm phát bao gồm cả hai đặc trưng:
rất cao và phi mã. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát điển
hình trong lịch sử lạm phát thế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10 triệu lần. Siêu lạm phát
thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc, tuy nhiên chúng cũng ít khi
xảy ra.
b. Theo khả năng định tính:
Lạm phát được gọi tên thêm các loại phổ biến sau:
* Lạm phát thuần tuý:
Lạm phát thuần tuý là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hoá tiêu dùng và
hàng hoá sản xuất đều tăng lên gần như cùng tỷ lệ % trong một đơn vị thời gian.
Đây là trường hợp mà nhu cầu trên thực tế tăng cùng chiều và khá tương đồng với
cung ứng tiền thực tế.
L = Error!
* Lạm phát cân bằng và không cân bằng:
Thí dụ đơn giản sẽ giúp chúng ta hiểu về lạm phát cân bằng: giả định rằng
vào tháng 5 năm 1992, một công nhân Việt Nam với mức lương bình quân
400.000đ/tháng, trường hợp xem giá gạo là giá cả đại diện cho các loại giá khác
trên thị trường, với giá gạo là 2.000đ/kg.
1 tháng lương = 400.000đ mua được Error! = 200kg
Mức sống của người công nhân nói trên được đo bằng 200kg gạo.
8
Giả định tiếp: đúng một tháng sau, tháng 6/1992, giá gạo đã lạm phát 2%.
Như vậy qua một tháng, giá gạo đã tăng lên thành:
2.000đ/kg x 2% + 2.000đ = 2.040đ/kg
Có ba tình huống xảy ra:
Thứ nhất, nếu lương của người công nhân vẫn không tăng, vẫn
400.000đ/tháng. Vào tháng 6, lương anh ta sẽ tương đương với:
Error! = 196,08kg gạo.
Như vậy, lạm phát trong tháng đã làm mất gần 4kg gạo của anh ta. Rõ ràng là
anh ta nghèo hơn một chút cuộc sống khó khăn hơn vì 196,08kg thì không thể
nhiều bằng 200kg của tháng 5 trước đó.
Thứ hai, có thể Nhà nước tiên liệu được tình hình lạm phát, quyết định tăng
lương công nhân trong tháng 6. Cho rằng hoặc vô hình hoặc đôi khi được tính
trước, tỷ lệ lương bình quân là 2% một tháng. Lúc đó:
Lương tháng 6 của công nhân = 400.000 (1 + 0,02)
= 408.000đ/kg
Lương này mua được (với giá gạo 2.040đ/kg) = Error! = 200kg
Mức sống của người công nhân này so với tháng 5 không có gì khác nhau.
Lương vẫn được đảm bảo cho anh ta mua được ngần ấy hàng hoá (đại diện là
200kg gạo). Anh ta không giàu hơn mà cũng không nghèo hơn so với tháng 5. Bởi
vì, tuy lương tăng được 8.000đ. Nhưng giá cả tăng lên vừa đủ phần tăng lương này.
Thứ ba: Nếu Nhà nước tăng lương công nhân hơi mạnh tay lên đến 107,1% so
với mức lương cũ.
Lương tháng 6 của công nhân = 400.000 x 107,1% = 428.400đ/tháng.
Đem tất cả lương này đi mua gạo, công nhân được:
Error! = 210kg gạo.
Lương tháng 5 chỉ mua được 200kg hàng hoá. Trong khi, sang tháng 6 lương
đã mua được đến 210kg hàng hoá. Anh ta giàu hơn tháng 5 là 10kg hàng hoá và rõ
ràng là cuộc sống của người này đã tốt hơn lên.
Trường hợp thứ hai được gọi là lạm phát cân bằng. Hai trường hợp thứ 1 và
thứ 3 là không cân bằng. Như vậy, cân bằng ở đây là cân bằng so với thu nhập.
9
Kết luận: Lạm phát được gọi là cân bằng khi nó tăng tương ứng với thu nhập.
Nghĩa là sự tồn tại của lạm phát không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
Ngược lại, lạm phát không cân bằng khi nó tác động đến đời sống của người lao
động nó làm cho họ giầu hơn nếu tỷ lệ % tăng lạm phát thấp hơn tỷ lệ % tăng
lương trong cùng thời gian, làm cho mọi người nghèo hơn, vất vả hơn nếu tỷ lệ %
của lạm phát cao hơn tỷ lệ % tăng của thu nhập cũng trong giai đoạn ấy.
Lạm phát không cân bằng là loại xảy ra phổ biến nhất.
* Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường.
Khi lạm phát (thí dụ 8% năm), xảy ra liên tục trong một khoảng thời gian đủ
dài (10 năm chẳng hạn), tâm lý và sự chờ đợi của nhân dân đã trở thành quán tính,
người ta đã quen dần với lạm phát. Năm thứ 11 hay 12 trở đi, việc nền kinh tế sẽ
có lạm phát 8% là chuyện bình thường và gần như được tin chắc, được đoán trước,
được chờ đợi. Người ta gọi là loại lạm phát dự đoán được.
Cũng có khi người ta có thể nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy
ra bởi các nguyên nhân của nó đã bộc lộ đầy đủ và rõ ràng. Trong tình huống như
vậy, người ta cũng sẵn sàng chờ đợi, không bất ngờ với lạm phát.
Nhưng nếu lạm phát bùng ra thình lình, trước đó chưa hề có. Thí dụ như nền
kinh tế đã quá quen với lạm phát rất thấp, bỗng nhiên lạm phát vọt lên cao như
Nhật Bản vào năm 1979, 1980, tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều
chưa thích nghi được với lạm phát. Người ta gọi đây là lạm phát bất thường.
Lạm phát bất thường dễ gây sốc cho cuộc sống và mọi người. Bởi vì nhân dân
chưa chuẩn bị về mặt tâm lý và tiêu xài để sống thích hợp với việc tăng giá đột
ngột.
* Lạm phát cao và lạm phát thấp.
Không thể đánh giá theo cách chủ quan của mình rằng đây là lạm phát cao,
kia là lạm phát thấp nếu không hiểu rõ tiêu chuẩn hoặc mốc để đánh giá. Bởi vì cao
hay thấp không đơn thuần chỉ dựa vào tỷ lệ % năm của nó.
Theo Smith và John Kenneth Galbraith, lạm phát được coi là cao khi tỷ lệ
tăng bình quân năm của giá cả lớn hơn mức tăng của thu nhập trong cùng thời
gian. Ngược lại, nó được gọi là thấp khi tỷ lệ tăng của nó từ nhỏ đến rất nhỏ. So
với mức tăng của thu nhập trong cùng một thời gian.
Như vậy, mốc hoặc tiêu chuẩn đánh giá lạm phát là cao hay thấp là tỷ lệ tăng
của thu nhập. Nếu ta liên hệ với phần lạm phát cân bằng và không cân bằng vừa
10
nghiên cứu thì tình huống thứ nhất được gọi là lạm phát cao. Tình huống thứ ba sẽ
được gọi là lạm phát thấp. Lạm phát cao đến rất cao khi nó làm cho đời sống nhân
dân ngày càng khó khăn hơn bởi vì, thu nhập thì không tăng hoặc tăng một tỷ lệ rất
ít trong khi giá cả mỗi tháng một lên cao hơn. Lạm phát được coi là thấp đến rất
thấp nếu nền kinh tế tuy vẫn có lạm phát, nhưng tỷ lệ lạm phát ấy là nhỏ đến rất
nhỏ so với mức tăng của thu nhập. Do đó đời sống của nhân dân vẫn tốt hơn, sung
sướng hơn.
Trong tình huống thứ ba, chúng ta có mức tăng lạm phát là 2% tháng hay xấp
xỉ 26,8%/năm. Nếu chỉ nhìn vào con số, người ta có thể gọi lạm phát như thế là
cao. Tuy nhiên, vì thu nhập trong thí dụ tăng 7,1%/tháng hay 127,73%/năm, cho
nên lạm phát trở thành rất thấp.
3. Nguyên nhân của lạm phát.
a. Cung ứng tiền tệ và lạm phát
* Quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển.
Căn cứ trên phương trình trao đổi:
MV = PY (1)
Các nhà kinh tế học cổ điển lập luận rằng:
Nếu gọi M0 là cung ứng tiền tệ hiện có trong nền kinh tế vào thời điểm t=0.
V0, P0 và Y0 lần lượt là vận tốc vòng quay của tiền tệ sinh lợi tức, giá cả và
sản lượng tương ứng tại thời điểm nói trên.
Đến thời điểm t=1, cung ứng tiền sẽ là M1, vận tốc vòng quay tiền tệ, giá cả,
sản lượng sẽ là V1, P1, Y1 .
Bởi vì cung ứng tiền ở mỗi thời điểm luôn luôn khác nhau dù ít hay nhiều
(M1M0), cho nên vận tốc vòng quay, giá cả, sản lượng cũng vậy. Ta cũng sẽ có V-
1V0 , P1P0 và Y1Y0 . Tạm chưa cần tìm hiểu M1 , V1 , P1 và Y1 sẽ lớn hơn hay
nhỏ hơn so với M0 , P0 , V0 và Y0 . Vấn đề là khi chúng khác nhau, thì:
M1 = M0 + gM M0
V1 = V0 + gV V0
P1 = P0 + gP P0
Y1 = Y0 + gY Y0
11
Với gM , gV , gP , gY lần lượt là tỷ lệ thay đổi của mỗi đại lượng. Tuỳ theo tình
hình phần tăng lên có thể là âm hay dương vì tại thời điểm t=1 ta cũng có:
M1V1 = P1Y1 (2)
Cho nên khi thay đổi đại lượng ở phía trên vào ta có:
M0 (1 + gM) x V0 (1 + gV) = P0 (1 + gP) x Y0 (1 + gY) (3)
Nhưng tại thời điểm t=0
M0V0 = P0Y0 (4)
Mà tỷ lệ tăng trên tổng tiền tệ và sản lượng giữa hai thời điểm t0 và t1 hoàn
toàn có thể phản ánh được:
Error! = Error! (5)
Do vậy, nó cũng có thể viết thành:
(1 + gM) (1 + gV) = (1 + gP) (1 + gY) (6)
1 + gV + gM + gMgV = 1 + gY + gP + gPgY
Vì MV = PY nên:
gM + gV = gP + gY (7)
Các nhà kinh tế học cổ điển diễn tả vắn tắt về phương trình (7) là vào bất kỳ
thời điểm nào của nền kinh tế khi so sánh với một thời điểm khác trước đó:
Tỷ lệ tăng trong;cung ứng tiền % +
Tỷ lệ tăng trong;vận tốc lưu thông;tiền tệ % = Tỷ lệ lạm phát;% +
Tỷ lệ tăng;của sản lượng
Họ xem đây là mấu chốt cơ bản để hiểu về mối quan hệ giữa hệ gia tăng trong
cung ứng tiền với lạm phát. Giả sử vào một thời điểm nào đó tỷ lệ thay đổi của sản
lượng và vận tốc lưu thông tiền tệ được xem là bằng không, lạm phát xảy ra khi và
chỉ khi cung ứng tiền gia tăng, chính quan điểm này đã được Friedman củng cố.
Ông phân biệt là không phải mọi trường hợp lạm phát xảy ra đều trực tiếp gây lên
bởi sự tăng cung ứng tiền. Nhiều trường hợp lạm phát bộc phát bởi nhiều tác nhân
khác. Tuy nhiên điều cần nói là đằng sau những tác nhân này luôn luôn có sự đóng
góp, hoặc vô trách nhiệm của chính sách tiền tệ. Cho nên có thể nói là mấu chốt
vẫn ở chế độ cung ứng tiền.
Đối với Friedman lạm phát được gây ra bởi một trong ba nguyên nhân đó là:
12
Cung ứng tiền tăng nhanh.
Chi phí đẩy giá cả lên cao.
Lãi suất hạ, tỷ giá giữa nội tệ và ngoại tệ tăng.
* Theo quan điểm của Keynes
Khi cung ứng tiền tăng từ 7.500 tỷ lên 8.000 tỷ, bản thân của sự tăng cung
ứng tiền về mặt ngắn hạn không ảnh hưởng đến các hàng số của phương trình (6)
cho nên đường IS không đổi. Tuy nhiên sự tăng nói trên lại tác động đến đường
LM. LM dịch qua bên phải và ứng với sự dịch chuyển này sản lượng tăng lên
12.000 tỷ VNĐ từ mức 11.000 tỷ VNĐ.
Điều quan trọng thứ nhất là theo Keynes cung ứng tiền tăng chưa tác động
trực tiếp ngay đến giá cả mà tác động trước hết là sản lượng. Cung ứng tiền tăng
làm sản lượng tăng.
Bước tiếp theo là khi sản lượng tăng, nó làm tăng nhu cầu về tiền, nhu cầu về
hàng hoá nhập khẩu và nhu cầu về các loại hàng hoá khác kể cả tài sản. Hơn nữa,
lãi suất họ vì đường LM trượt dọc theo IS cũng là nhân tố làm cho chi phí cơ hội
của việc giữ tiền và tiêu tiền trở nên thấp hơn. Nhu cầu tăng làm đường tổng cầu
trên thị trường hàng hoá cũng phải dịch bên phải trượt dọc theo đường sản lượng
IS đến giao điểm B'. Tại mức giao điểm mới này giá cả trên thị trường hàng hoá đã
tăng từ P0 đến P1.
Sự tăng lên của cung ứng tiền chuyển hoá thành lạm phát thông qua sự kích
thích để tăng sản lượng danh nghĩa và tổng cầu. Đó là cách giải thích của Keynes.
Ông đi xa hơn khi cho rằng vào thời điểm đầu, LM thể hiện qua cung ứng tiền tệ
thực tế sẽ bằng Error!. Sự tăng của cung ứng tiền M0 lên M1 sẽ diễn ra theo hai
giai đoạn. Ông lý luận rằng vào ngay lúc đầu M0 tăng lên nhanh M1 trong lúc giá
cả chưa biến động, vẫn ở mức P0, sẽ làm cho LM thay đổi rất lớn. LM dịch chuyển
lên tới LM'.
13
Hình 1
Với LM' = Error! và sản lượng danh nghĩa đã vượt lên đến 12.000đ.
Khi sản lượng tăng nó thực sự kích thích tổng cầu tăng, giai đoạn hai bắt đầu.
Giá cả lên từ P0 đến P'. Lạm phát đạt mức rất cao. Lúc này thương số M1/P' làm
cho mức cung tiền thực tế trở lên nhỏ hơn giai đoạn 1. P' càng lớn bao nhiêu cùng
tiền tệ thực tế