Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là một nhu cầu khách quan
nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự đang ngày càng gia
tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Quá trình xây dựng
và hoàn thiện pháp luật TTDS nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, đảm bảo cho
việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp
luật.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế (PLTTGQCVAKT) 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
(PLTTGQCTCLĐ) 1996 là bước phát triển có tính bước ngoặt đối với ngành luật TTDS
Việt Nam. Bộ luật này quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản trong
TTDS; trình tự thủ tục khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc
dân sự tại Tòa án, thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng.
Chương XIV BLTTDS quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ
thẩm. Đây là chế định có vai trò, vị trí rất quan trọng, quy định khá cụ thể và toàn diện các
vấn đề như: Các quy định chung tại phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh luận tại
phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Mặc dù là Bộ luật mới ra đời, có sự kế thừa các quy định trước đó và được Quốc
hội dày công soạn thảo, song một số quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong thực tiễn
áp dụng còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập và chưa hợp lý, làm cho quá trình xét xử sơ
thẩm gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án cũng như kéo dài
thời gian giải quyết, chưa đáp ứng được tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết 08-NQ/TƯ ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08) và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49).
68 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2985 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về
phiên tòa sơ thẩm dân sự
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là một nhu cầu khách quan
nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự đang ngày càng gia
tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Quá trình xây dựng
và hoàn thiện pháp luật TTDS nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, đảm bảo cho
việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp
luật.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế (PLTTGQCVAKT) 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
(PLTTGQCTCLĐ) 1996 là bước phát triển có tính bước ngoặt đối với ngành luật TTDS
Việt Nam. Bộ luật này quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản trong
TTDS; trình tự thủ tục khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc
dân sự tại Tòa án, thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng.
Chương XIV BLTTDS quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ
thẩm. Đây là chế định có vai trò, vị trí rất quan trọng, quy định khá cụ thể và toàn diện các
vấn đề như: Các quy định chung tại phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh luận tại
phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Mặc dù là Bộ luật mới ra đời, có sự kế thừa các quy định trước đó và được Quốc
hội dày công soạn thảo, song một số quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong thực tiễn
áp dụng còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập và chưa hợp lý, làm cho quá trình xét xử sơ
thẩm gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án cũng như kéo dài
thời gian giải quyết, chưa đáp ứng được tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết 08-NQ/TƯ ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08) và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49).
Chính vì vậy, chúng tôi thấy việc đi sâu nghiên cứu các quy định này này nhằm
phân tích, đánh giá đúng các điều luật, tạo điều kiện cho việc nhận thức và áp dụng trên
thực tế một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Đồng thời, tìm ra những tồn tại,
bất cập của các quy định trên, đưa ra những giải pháp hữu hiệu đóng góp vào quá trình xây
dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, chưa có một công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một
cách đầy đủ các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự. Hơn nữa BLTTDS 2004 bắt đầu có
hiệu lực kể từ 1/1/2005, nên chưa có một hội nghị tổng kết hay hội thảo khoa học nhằm
nêu ra những tồn tại, vướng mắc trong quá trình áp dụng. Một số công trình nghiên cứu
của một số tác giả nhưng đề cập đến các vấn đề khác như: Luận văn thạc sĩ "Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Hoài Nam; Luận văn thạc
sĩ "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Thị Hà; Luận văn thạc sĩ "Thủ
tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Thị
Thu Hà...
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các quy
định về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS mà không nghiên cứu vấn đề
này đối với việc dân sự. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu một số quan điểm trong các Nghị
quyết 08 và Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp với mục đích làm sáng tỏ trọng tâm nghiên
cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo tinh thần cải cách
tư pháp. Từ đó nhiệm vụ của đề tài là giải quyết về mặt lý luận các khái niệm thuộc phạm
vi nghiên cứu của đề tài cũng như các vấn đề có liên quan. Trên cơ sở phân tích, đánh giá
các quy định của pháp luật hiện hành, nêu lên thực trạng của việc áp dụng luật trong quá
trình giải quyết các tranh chấp dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật TTDS về phiên
tòa sơ thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Chương 2: các quy định về phiên tòa sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
phiên tòa sơ thẩm.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận
về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng dân sự
1.1.1. Vụ án dân sự - cơ sở làm phát sinh phiên tòa sơ thẩm dân sự
Quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) bao gồm các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Các quan hệ này hết sức đa dạng và
phong phú, diễn ra hàng ngày trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gắn liền với bất cứ
chủ thể nào. Các chủ thể tham gia quan hệ dân sự bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu,
lợi ích nhất định. Sự đan xen về mặt lợi ích cũng như tính muôn màu muôn vẻ của các
quan hệ dân sự làm phát sinh các tranh chấp dân sự là điều không thể tránh khỏi. Khi xảy
ra tranh chấp dân sự, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án - cơ quan xét xử của Nhà nước
giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong quá trình xảy ra tranh chấp dân sự, các chủ thể có thể thỏa thuận với nhau
để giải quyết tranh chấp. Đó là quá trình tự điều chỉnh thông qua phương pháp thỏa thuận
trong quan hệ pháp luật dân sự mà chưa cần sự can thiệp của một chủ thể thứ ba. Khi các
chủ thể không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và yêu cầu tòa án
giải quyết thì tranh chấp đó được giải quyết thông qua con đường tòa án và tranh chấp đó
được gọi là vụ án dân sự.
Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà các chủ thể không tự thỏa thuận
được buộc phải khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết. Việc đương sự khởi kiện yêu cầu tòa
án giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự là sự kiện làm phát sinh tố tụng
phiên tòa. Hay nói cách khác, "tranh chấp dân sự" kết hợp với yếu tố "kiện" của đương sự
là tiền đề để tòa án mở phiên tòa xét xử. Ngoài yếu tố "kiện" là bản chất của vụ án dân sự,
yếu tố chủ thể là nguyên đơn, bị đơn cũng là đặc trưng của loại tố tụng xét xử sơ thẩm dân
sự. Vụ án dân sự được BLTTDS quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 ở trong các lĩnh vực
như dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động bao gồm:
* Những tranh chấp dân sự truyền thống:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp các
bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
- Tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
- Các tranh chấp về dân sự mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình:
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
- Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhận bao gồm: Mua bán hàng hóa;
cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư
vấn kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua
bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá trị khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm;
thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia
tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về lao động:
- Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động
mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước
về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải không thành hoặc không
giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết
phải qua hòa giải tại cơ sở:
+ Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ
cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động.
+ Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao
động.
- Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã
được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết mà tập
thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng
trọng tài lao động, bao gồm:
+ Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều
kiện khác.
+ Về thực hiện thỏa ước lao động tập thể.
+ Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
- Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Ngoài khái niệm vụ án dân sự, BLTTDS còn phân biệt một loại việc cũng thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa án đó là việc dân sự.
Việc dân sự là các loại việc trong đó các chủ thể không có tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ dân sự (theo nghĩa rộng) mà chỉ yêu cầu tòa án công nhận một sự kiện pháp lý
làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự hay yêu cầu tòa án công nhận cho mình
quyền về dân sự. Do đó, việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục tố tụng khác độc lập
mà không làm căn cứ phát sinh hoạt động tố tụng xét xử của tòa án.
Việc dân sự được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS như sau:
* Những yêu cầu về dân sự:
- Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vị dân sự.
- Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của
người đó.
- Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất
tích.
- Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của tòa án nước ngoài
hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định hình sự, hành chính của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại
Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình:
- Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hôn nhân
và gia đình của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân
và gia đình của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại:
- Yêu cầu liên quan đến Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh
chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh,
thương mại của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh,
thương mại của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương
mại của Trọng tài nước ngoài
- Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về lao động:
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định lao động của
tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động của tòa án
nước ngoài.
- Các yêu cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Như vậy, vụ án dân sự mới là sự kiện làm phát sinh tố tụng phiên tòa xét xử, do
đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự.
1.1.2. Cơ chế giải quyết vụ án dân sự theo trình tự tố tụng sơ thẩm
Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, có hai cơ chế tố tụng giải quyết vụ án dân sự
có thể thực hiện là: Có thể thông qua hoạt động hòa giải hoặc phải mở phiên tòa xét xử.
Hòa giải là một chế định mang tính đặc thù trong TTDS. Xuất phát từ quyền quyết
định và tự định đoạt cũng như yếu tố thỏa thuận trong quan hệ dân sự, các chủ thể có thể
thỏa thuận vào bất cứ thời điểm nào để tự bản thân họ giải quyết tranh chấp. Hòa giải trong
TTDS có nhiều ưu điểm vượt trội, vừa thể hiện tính nhân văn trong hoạt động tư pháp
đồng thời phát huy được các giá trị truyền thống, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ trong nhân
dân. Sau khi thụ lý đơn khởi kiện, tòa án có trách nhiệm tổ chức các phiên hòa giải để
đương sự có điều kiện thỏa thuận với nhau. Khi tiến hành hòa giải, chỉ các đương sự có
quyền quyết định nội dung giải quyết tranh chấp, tòa án chỉ là người hướng dẫn về mặt
pháp luật, khuyến khích các bên thương lượng, đàm phán đồng thời đảm bảo việc hòa giải
không bị ép buộc và phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu đương sự thỏa thuận được
với nhau để giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động hòa giải, việc giải quyết vụ án coi
như kết thúc mà không cần tòa án tiến hành xét xử. Hòa giải thành một vụ án dân sự không
chỉ giải quyết dứt điểm mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn giảm bớt các thủ tục tốn kém
thời gian, công sức của đương sự và cơ quan xét xử.
Tuy nhiên, không phải tranh chấp dân sự nào cũng giải quyết được bằng con
đường hòa giải. Nhiều tranh chấp chỉ được giải quyết thông qua hoạt động xét xử của tòa
án. Đối với những tranh chấp dân sự khởi kiện ra tòa án, sau khi hòa giải không thành,
hoặc không tiến hành hòa giải được (một số trường hợp pháp luật quy định không được
hòa giải) thì tranh chấp đó chỉ có thể giải quyết thông qua hoạt động xét xử của tòa án tại
phiên tòa sơ thẩm.Việc một vụ án dân sự không thể giải quyết được bằng con đường hòa
giải đồng nghĩa với việc các đương sự không thể tự giải quyết được tranh chấp của họ, khi
đó vai trò giải quyết nội dung tranh chấp thuộc về tòa án thông qua việc xét xử. Tại phiên
tòa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên phụ thuộc vào phán quyết của
tòa án dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ, kết quả của việc hỏi và tranh luận tại
phiên tòa cũng như hoạt động áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử. Nếu trong quá trình
hòa giải, tòa án chỉ giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi tranh chấp giữa các đương sự
thì việc xét xử tại phiên tòa phải xem xét toàn bộ các vấn đề của vụ án. Ngoài việc xác
định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự, tòa án còn giải quyết các
vấn đề khác liên quan đến vụ án.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Theo quyển sổ tay pháp lý thông dụng, thuật ngữ "phiên tòa" có nghĩa là "nơi diễn
ra hoạt động xét xử của tòa án nhân dân" [14, tr. 270]. Theo Từ điển Tiếng Việt thì "sơ
thẩm" có nghĩa là việc "xét xử một vụ án với tư cách là tòa án ở cấp xét xử thấp nhất" [38,
tr. 869], còn Từ điển Luật học thì định nghĩa "sơ thẩm" là "lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ
án tại một tòa án có thẩm quyền" [37, tr. 434]. Các khái niệm trên đã xác định được một vài
đặc trưng của phiên tòa sơ thẩm nói chung cũng như phiên tòa sơ thẩm dân sự nói riêng,
tuy nhiên còn phiến diện và chưa phản ánh được đầy đủ bản chất của phiên tòa sơ thẩm
dân sự.
Chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự bao gồm các quy định về trình tự, thủ tục tại
phiên tòa sơ thẩm. Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết yêu cầu của đương sự,
nếu vụ án buộc phải đưa ra xét xử thì tòa án mở phiên tòa sơ thẩm để giải quyết tranh chấp
giữa các bên. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những người tiến hành tố tụng,
các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Mọi hoạt động tại phiên tòa được
tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định. Các chủ thể tham gia phiên tòa có tư cách tố tụng
khác nhau và có các quyền và nghĩa vụ tố tụng độc lập. Hội đồng xét xử đảm bảo cho việc
xét xử diễn ra theo đúng tố tụng đồng thời tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật xác định
nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự cũng như giải quyết triệt để các
vấn đề khác của vụ án. Các đương sự thực hiện hoạt động chứng minh cho yêu cầu, đề
nghị của mình, thuyết phục Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết có lợi cho họ. Những người
tham gia tố tụng khác có trách nhiệm giúp cho Hội đồng xét xử tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Để có một phán quyết cuối cùng công bằng và thuyết phục, mọi diễn biến tại
phiên tòa sơ thẩm dân sự phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ được quy định trong
pháp luật TTDS.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành vào thời gian và tại địa điểm được ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu không có căn cứ hoãn phiên tòa hoặc không
phải trong trường hợp pháp luật quy định xét xử vắng mặt thì những người tiến hành tố
tụng, đương sự và những người tham gia tố tụng khác (trong trường hợp cần thiết) phải có
mặt đầy đủ tại phiên tòa. Ngoài một số trường hợp tòa án phải xét xử kín, phiên tòa sơ
thẩm dân sự được xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa.
Từ những phân tích trên đây, có khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự như sau:
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử của tòa án, trong đó vụ án
dân sự được đưa ra xét xử lần đầu, do một tòa án cấp huyện hoặc một tòa án cấp tỉnh thực
hiện theo thẩm quyền trên cơ sở một trình tự, thủ tục nhất định.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hoạt động của cơ quan xét xử được điều chỉnh bởi
Luật tổ chức tòa án nhân dân (TAND) và pháp luật TTDS. Chính vì vậy, nó cũng có