Ngôn ngữ là một loại chất liệu đặc biệt không thể thiếu trong quá trình sáng tạo văn chương,
đặc biệt là thơ ca, bởi các tác phẩm văn chương, trước hết, là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Thơ
ca Việt Nam được xem là bức tranh vô cùng phong phú và đa dạng, phản ánh trung thực đất nước,
con người Việt Nam qua bao thời đại. Lời thơ cũng chính là tình cảm chân thành, sâu sắc của các
tác giả. Các tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, của mình. Và
thông qua những hình tượng thẩm mĩ, thơ ca đã thể hiện phong phú và linh hoạt những suy tư, diễn
biến tình cảm và nhận thức của con người. Văn chương là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Chúng ta
tìm hiểu một tác phẩm văn chương không chỉ ở phương diện viết về cái gì mà còn ở phương diện
viết như thế nào. Sức sống của những tác phẩm văn chương không thể thiếu những đóng góp ở
phương diện viết như thế nào ấy. Do vậy, việc áp dụng những tri thức ngôn ngữ học nói chung và tri
thức ngôn ngữ học văn bản nói riêng để tìm hiểu văn bản thơ ca là điều rất cần thiết
115 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3086 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------
THÁI THỊ LAN ANH
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG
TRONG THƠ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ, và động viên rất quý báu của thầy cô, gia đình, bạn bè và
anh chị em đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến TS Trần Hoàng,
người thầy kính mến đã tận tâm hướng dẫn khoa học, hết lòng giúp đỡ, dạy bảo và luôn
động viên tôi.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô đã tận tình dìu dắt, truyền dạy
kiến thức cho tôi trong thời gian qua.
Xin cảm ơn phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tạo điều
kiện thuận lợi trong thời gian tôi học tập tại trường.
Cảm ơn Ban Giám hiệu và tổ Ngữ Văn trường THPT Trường Chinh, Quận 12,
TPHCM đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong công tác.
Sau cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
TPHCM, tháng 11 năm 2010
Thái Thị Lan Anh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là một loại chất liệu đặc biệt không thể thiếu trong quá trình sáng tạo văn chương,
đặc biệt là thơ ca, bởi các tác phẩm văn chương, trước hết, là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Thơ
ca Việt Nam được xem là bức tranh vô cùng phong phú và đa dạng, phản ánh trung thực đất nước,
con người Việt Nam qua bao thời đại. Lời thơ cũng chính là tình cảm chân thành, sâu sắc của các
tác giả. Các tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, của mình. Và
thông qua những hình tượng thẩm mĩ, thơ ca đã thể hiện phong phú và linh hoạt những suy tư, diễn
biến tình cảm và nhận thức của con người. Văn chương là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Chúng ta
tìm hiểu một tác phẩm văn chương không chỉ ở phương diện viết về cái gì mà còn ở phương diện
viết như thế nào. Sức sống của những tác phẩm văn chương không thể thiếu những đóng góp ở
phương diện viết như thế nào ấy. Do vậy, việc áp dụng những tri thức ngôn ngữ học nói chung và tri
thức ngôn ngữ học văn bản nói riêng để tìm hiểu văn bản thơ ca là điều rất cần thiết.
Nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ học, đặc biệt là ngôn ngữ học văn bản cũng là một
hướng nghiên cứu khá mới mẻ. Hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu thơ ca theo hướng này.
Chính vì vậy, luận văn của chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt
Nam. Đây cũng là một trong những cách để đóng góp cho khoa học chuyên ngành.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn chung, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thơ ca Việt Nam. Tuy
nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thơ ca Việt Nam là dưới góc độ văn học, còn dưới góc độ
ngôn ngữ học thì còn khá ít.
Tìm hiểu thơ ca dưới góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi thấy có một số bài viết và công trình
nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Năm 1985, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã giới thiệu với bạn đọc công trình “Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc [43]. Công trình gồm có mười chương
bàn về các vấn đề như tư tưởng, phương pháp tự sự của Truyện Kiều, Truyện Kiều, tiểu thuyết phân
tích tâm lí, một vài vấn đề nhận thức luận chung quanh Truyện Kiều, cách bố cục Truyện Kiều theo
yêu cầu của kịch. Trong công trình này, đặc biệt phải kể đến các chương sau cùng: Chương 7 – Câu
thơ Truyện Kiều; Chương 8 – Ngôn ngữ Truyện Kiều; Chương 9 – Ngữ pháp Truyện Kiều; Chương
10 – Phong cách học và phân tích văn học. Mặc dù công trình này chủ yếu bàn về mặt phong cách
của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, không đề cập nhiều đến liên kết liên tưởng, nhưng có một số
nhận định rất đáng lưu ý. Chẳng hạn, Phan Ngọc đã khẳng định “Trong phong cách có nội dung,
nhưng nội dung được xây dựng theo cái hình thức riêng thích hợp với phong cách này. Nó có hình
thức, nhưng hình thức là để thích hợp với một loại nội dung nhất định, chứ không thích hợp với một
nội dung khác. Nói khác đi, khi nó nói đến nội dung thì nó nói luôn cả hình thức hóa nội dung, và
ngược lại khi nói đến hình thức thì nó nói luôn hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội
dung đã chọn”. Như vậy, theo ông, khi tìm hiểu một tác phẩm văn học dù dưới bất kì góc độ nào,
đều phải chú trọng cả hai mặt nội dung và hình thức. Nghiên cứu liên kết liên tưởng trong thơ ca
cũng không ngoại lệ.
Năm 1987, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã giới thiệu với bạn
đọc công trình “Ngôn ngữ thơ” của Nguyễn Phan Cảnh [6]. Công trình gồm mười hai chương.
Chương 1 viết về “Ngôn ngữ giao tế và ngôn ngữ nghệ thuật”. Nội dung của chương 2 là Nghệ
thuật ngôn ngữ và các loại hình nghệ thuật. Trong chương 3: Ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi,
tác giả đã khẳng định “các nhà thơ tư duy trên chất liệu ngôn ngữ”. Chương 4: Các tín hiệu đơn.
Chương 5: Cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa hay bản chất các phương thức chuyển nghĩa có
tính chất ẩn dụ. Trong chương này, tác giả đã cho rằng “Một văn bản thơ, tuy bao gồm nhiều tín
hiệu riêng lẻ với tư cách là những yếu tố tạo thành của tác phẩm, nhưng bản chất nghệ thuật của
văn bản lại tùy thuộc một cách rất cơ bản vào phương thức liên tưởng của các tín hiệu ấy. Nói cách
khác, nghệ thuật ngôn ngữ trước hết là nghệ thuật tạo những mối liên tưởng giữa các yếu tố riêng lẻ
làm thành tác phẩm nhằm sử dụng một cách mỹ học chiều dày của chất liệu ngôn ngữi”. Chương 6
viết về bản chất của các phương thức chuyển nghĩa có tính chất hoán dụ. Trong chương này,
Nguyễn Phan Cảnh đã khẳng định “quan niệm tri giác mỹ học như một quá trình, một phạm trù giãn
nở, chú trọng đến tính chất động học của nó, lắp ghép chính là phương thức hướng dẫn sự chú ý và
liên tưởng của người nhận một cách bắt buộc”. Trong chương 7, tác giả đề cập đến vấn đề nhạc thơ.
Chương 8: Nét khu biệt và nét dư trong ngôn ngữ thơ. Chương 9: Thể loại hay ngưỡng âm tiết. Ở
chương 10, tác giả chỉ tập trung viết về thể loại thơ lục bát. Chương 11 là vấn đề thơ dịch và dịch
thơ. Chương 12 viết về Động học của thi pháp hay sự giãn nở của ngôn ngữ thơ. Có thể nói, công
trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh là một trong những công trình nghiên cứu thơ ca dưới
góc độ ngôn ngữ học rất có giá trị. Tuy nhiên, do tính chất bao quát, trong công trình này, vấn đề
liên kết liên tưởng vẫn chưa được tìm hiểu kĩ.
Trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 5 – 2000 có bài viết “Vầng trăng từ độ” của Trần
Hoàng [23]. Bài viết này đã đề cập đến những cách biểu đạt vầng trăng dựa trên sự liên tưởng. Tác
giả đã khẳng định “sự liên tưởng càng độc đáo càng giàu tính sáng tạo, càng gây được nhiều rung
cảm thẩm mĩ ở người đọc”. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng “qua cái liên tưởng ấy, ta hiểu được
tâm hồn và cá tính của nhà thơ”. Rõ ràng, liên tưởng có vai trò rất quan trọng trong thơ ca.
Năm 2006, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã ra mắt bạn đọc công trình “Những lĩnh
vực ứng dụng của Việt ngữ học” của Nguyễn Thiện Giáp [14]. Công trình gồm có năm chương.
Trong đó, nội dung Việt ngữ học với việc nghiên cứu văn học ở chương 4 đã đề cập đến việc nghiên
cứu văn học dưới góc độ ngôn ngữ học. Cụ thể là các chủ đề: Nghiên cứu văn học theo cách tiếp
cận văn bản học; Nghiên cứu văn học theo cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc; Nghiên cứu văn học
với tư cách là nghệ thuật ngôn từ; và Vận dụng những phương pháp của ngôn ngữ học thống kê và
lí thuyết thông tin vào nghiên cứu văn học. Đây một trong những công trình quan trọng trong việc
vận dụng kiến thức ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, công trình này cũng
chưa đề cập nhiều đến phương thức liên kết liên tưởng trong thơ.
Ngoài ra, rải rác trong các tạp chí chuyên ngành (Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và Đời sống) cũng
xuất hiện những bài viết chung về ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ văn chương hay một số khía cạnh nào đó
của thơ ca Việt Nam
Liên quan đến đề tài còn có một số công trình nghiên cứu về liên kết văn bản tiếng Việt.
Năm 1985 (tái bản vào năm 2006), công trình “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” của
Trần Ngọc Thêm [66] được công bố. Đây là công trình rất có giá trị và đánh dấu bước phát triển
mới của ngôn ngữ học văn bản nói chung và các phương thức liên kết văn bản nói riêng. Công trình
gồm có ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập đến các khái niệm và cái nhìn khái quát về
“Liên kết văn bản”. Ở phần 2, cũng gồm có ba chương, tác giả bắt đầu đi vào “Các phương thức liên
kết giữa các phát ngôn”. Phương thức liên kết liên tưởng được trình bày khá cụ thể và chi tiết ở
chương 2. Dựa vào đặc điểm liên quan về nghĩa thông qua một số ít nghĩa chung và không chứa nét
nghĩa đối lập giữa các phát ngôn, tác giả đã phân chia thành bảy kiểu liên kết liên tưởng. Đó là: liên
tưởng bao hàm, liên tưởng đồng loại, liên tưởng định lượng, liên tưởng định vị, liên tưởng định
chức, liên tưởng đặc trưng và liên tưởng nhân quả. Còn ở phần 3, tác giả đề cập đến liên kết về mặt
nội dung. Như vậy, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm cơ
bản của các phương thức liên kết liên tưởng. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi kế thừa có
điều chỉnh để khảo sát các phương thức liên kết liên tưởng trong thơ ca Việt Nam. Có thể nói, đây là
một trong những công trình nghiên cứu sâu về các phương thức liên kết liên tưởng trong tiếng Việt.
Năm 1999, Nhà xuất bản Giáo dục đã ra mắt bạn đọc công trình của Nguyễn Thị Việt Thanh
[57] về “Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng nghiên cứu của công trình này là ngôn bản,
đề cập khá sâu về những vấn đề chung liên quan đến liên kết lời nói. Tác giả chia liên kết lời nói
thành hai phương thức: phương thức ngữ kết học và phương thức ngữ dụng học. Phương thức liên
kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: liên kết duy trì chủ đề, liên kết phát triển chủ đề và
liên kết logic. Nhìn chung, đóng góp chủ yếu của công trình này là nghiên cứu các phương tiện liên
kết trên ngữ liệu lời nói.
Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” của Diệp Quang Ban [2] được tái
bản (lần thứ ba). Trong công trình này, ở phần 2, tác giả đã đề cập đến “Liên kết trong tiếng Việt”,
trong đó có phép liên tưởng (từ tr. 126-128). Lấy phát ngôn làm cơ sở như Trần Ngọc Thêm, Diệp
Quang Ban cũng chia phép liên tưởng thành bảy kiểu cơ bản như: liên tưởng bao hàm, liên tưởng
đồng loại, liên tưởng định lượng, liên tưởng định vị, liên tưởng định chức, liên tưởng đặc trưng và
liên tưởng nhân quả. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa ra khoảng mười lăm cách hiểu khái niệm
văn bản, phân biệt khái niệm văn bản với diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết, đồng thời nêu lên những
đặc trưng về văn bản nói chung.
Năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển “Văn bản” của tác
giả Diệp Quang Ban [3]. Công trình tuy khá bao quát các khía cạnh của văn bản, đề cập hầu hết các
phương thức liên kết, nhưng nhìn chung chỉ là sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên những
đóng góp riêng của nó là không đáng kể.
Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về liên kết văn
bản thơ ca Việt Nam, nhất là về liên kết liên tưởng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã trình
bày trên đây là những cơ sở lí thuyết quan trọng, được luận văn vận dụng vào nghiên cứu ở những
mức độ khác nhau.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam với mong muốn tìm hiểu
cụ thể hơn về vấn đề này, đồng thời cũng mong muốn có cái nhìn đầy đủ hơn đối với tác phẩm thơ
ca. Trước hết, mỗi một tác phẩm là một văn bản, vì vậy, nó cũng là đối tượng của ngôn ngữ học văn
bản chứ không phải chỉ là đối tượng của văn học.
Chúng tôi cũng hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ
vào việc nghiên cứu và giảng dạy các tác phẩm thơ ca Việt Nam trong trường phổ thông hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam, luận văn của chúng tôi giới hạn
phạm vi nghiên cứu như sau:
Các ngữ liệu khảo sát là những văn bản thơ của một số tác gia tiêu biểu trong văn học thời kì
trung đại và thời kì hiện đại. Đã là một tác phẩm văn học, mà cụ thể ở đây là tác phẩm thơ ca, thì
nhất thiết phải có sự liên kết. Tuy nhiên, khi tìm hiểu vấn đề liên kết văn bản, chúng tôi không
nghiên cứu tất cả các phương thức, phương tiện liên kết mà chỉ nghiên cứu phương thức liên kết liên
tưởng. Chúng tôi cũng thử so sánh đối chiếu kết quả thu được sau khi tìm hiểu trên cứ liệu là các
văn bản (tác phẩm) thơ ca của tác gia này với tác gia khác và hy vọng phát hiện thêm những điều
mới mẻ thú vị về phong cách cá nhân của các nhà thơ được thể hiện ở phương diện mà chúng tôi
đang nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu miêu tả, phân tích, đối
chiếu và một số thủ pháp như phân loại, hệ thống hóa, và thống kê toán học. Trước hết, chúng tôi
thu thập và phân loại cứ liệu, sau đó, tiến hành phân tích những phương thức liên kết liên tưởng
trong các văn bản đã được thu thập được trên cơ sở xác định mỗi dòng thơ là một phát ngôn. Cuối
cùng, chúng tôi lập bảng thống kê, thử đối chiếu kết quả thu được sau khi tìm hiểu trên cứ liệu là
các văn bản (tác phẩm) thơ ca của tác gia này với tác gia khác và đưa ra những nhận xét.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Về lí thuyết: Nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam sẽ góp thêm
một công trình vận dụng ngữ pháp văn bản vào nghiên cứu ngôn ngữ và nghiên cứu văn học. Đề tài
sẽ làm rõ thêm cơ sở lí luận của ngôn ngữ học văn bản, cụ thể là phương thức liên kết liên tưởng.
Thực hiện đề tài này, người viết mong muốn có sự nhìn nhận xác đáng về liên kết liên tưởng, về liên
kết văn bản, và về văn bản với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, góp phần làm sáng rõ những giá
trị vốn đã lớn lao của thơ ca Việt Nam, đồng thời góp thêm một hướng nghiên cứu mới cho văn học.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể ứng dụng vào giảng dạy thơ ca Việt
Nam trong nhà trường.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương. Nội dung
của chương một là cơ sở lí thuyết, bao gồm vấn đề liên kết liên tưởng và đặc điểm liên kết liên
tưởng trong thơ. Ở chương hai và chương ba, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát liên kết liên tưởng
trong thơ của một số tác gia tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kì trung đại và thời kì hiện đại.
Cụ thể, trong chương hai, chúng tôi sẽ khảo sát liên kết liên tưởng trong thơ của Nguyễn Trãi, Hồ
Xuân Hương và Nguyễn Khuyến; trong chương ba, chúng tôi sẽ khảo sát liên kết liên tưởng trong
thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Xuân Quỳnh. Trọng tâm nghiên cứu của luận văn này nằm ở
chương hai và chương ba.
Chương 1:
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG VÀ ĐẶC ĐIỂM
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG TRONG THƠ VIỆT NAM
1.1. Liên kết
Theo quan niệm của ngôn ngữ học truyền thống, cả một thời gian dài, phạm vi nghiên cứu
của ngôn ngữ học không bao giờ vượt ra khỏi giới hạn câu. Do các lí thuyết ngôn ngữ học được xây
dựng trong khuôn khổ câu nên càng về sau càng bộc lộ những hạn chế và bất lực trước những nhu
cầu của lí luận và thực tiễn. Đó là:
“Không đủ khả năng giải thích nhiều hiện tượng biểu hiện trong phạm vi câu nhưng lại có
liên quan đến những cơ chế ngoài câu như: hiện tượng điệp, đối; việc lựa chọn quán từ; vai trò của
đại từ, từ nối, từ chêm xen; bản chất và chức năng của các loại câu đặc biệt, câu vô nghĩa,
Không đủ đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của việc xây dựng văn bản, trong đó có môn làm
văn trong nhà trường. Không đủ giúp cho học sinh viết được những bài văn mạch lạc, đúng và hay.
Không đủ khả năng phân tích và đề ra cách sửa chữa nhiều loại lỗi trong các bài viết của các em.
Liên quan đến các vần đề này là những nhu cầu của công tác biên tập – xuất bản, công tác tuyên
truyền, báo chí, phát thanh,
Không đáp ứng nhu cầu thực tiễn của việc phân tích tác phẩm văn học. Cái quan trọng đối
với một tác phẩm văn học là cấu trúc văn bản hoàn chỉnh của nó thì lại là cái “ngoài rìa” đối với
ngôn ngữ học”.
Không đáp ứng những nhu cầu cấp bách của việc tự động hóa các quá trình xử lí thông tin
ngôn ngữ: các bản dịch, các bài tóm tắt văn bản do máy tính điện tử làm ra theo những quy trình
được xây dựng trên cơ sở của những thành tựu của ngôn ngữ học trong câu có thể gồm những câu
đúng nhưng toàn văn bản thì không tránh khỏi tình trạng câu ngô nghê, rời rạc”. (Theo [66; 9-10])
Trước những nhu cầu của lí luận và thực tiễn, đòi hỏi ngôn ngữ học phải có một bước phát
triển mới, phải đưa phạm vi nghiên cứu vượt qua khỏi giới hạn câu để đến với những đơn vị có qui
mô và kích thước lớn hơn. Từ đó, ngữ pháp văn bản, hay rộng hơn ngôn ngữ học văn bản ra đời.
Người ta nhận thấy rằng, văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần của các câu. Ta
hãy xét ngữ liệu sau đây:
“(1)Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. (2) Nàng là một
thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ. (3) Họ sống êm ấm dưới một mái
nhà, cùng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. (4) Vẻ đẹp của Kiều hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải
hờn. (5) Còn Vân có nét đẹp đoan trang thùy mị. (6) Còn về tài thì nàng hơn hẳn Thúy Vân. (7) Thế
nhưng nàng đâu có được hưởng hạnh phúc.”
(Theo SGK Ngữ Văn 10, tập hai, Nxb GD, 2006, tr. 66)
Rõ ràng, cả bảy câu trong đoạn văn trên đều đúng ngữ pháp. Nhưng cả đoạn văn vẫn chưa có
được tính thống nhất, chặt chẽ. Vì thế cho nên, các câu trên chỉ là một chuỗi các câu hỗn độn mà
thôi. Vậy thì cái gì đã làm cho một chuỗi các câu hỗn độn trở thành văn bản? Không thể nghiên cứu
các câu độc lập, chỉ có thể quan sát trên tổng thể văn bản thì mới có thể tìm ra câu trả lời.
Hãy xem xét từng câu trong ngữ liệu trên. Câu (1), câu mở đầu giới thiệu về cả hai nhân vật
là Thúy Kiều và Thúy Vân. Thế nhưng, sang câu (2), người viết lại dùng đại từ thay thế là nàng –
vốn dĩ chỉ để thay thế cho ngôi thứ ba số ít. Nên giữa câu (1) và (2) chưa có sự thống nhất với nhau.
Tiếp tục, ở câu (3), lại dùng đại từ thay thế ở ngôi thứ ba số nhiều là họ. Chắc chắn là mọi người
đọc đều hiểu rằng họ ở đây là Thúy Kiều và Thúy Vân. Như vậy, trật tự hợp lí của câu (3) là phải
ngay sau câu (1) vì câu (1) giới thiệu về hai nhân vật này. Câu (3) có một phần nội dung là nói về
cuộc sống của hai nhân vật nên ta phải đưa sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ ở câu (2) vào để
bổ sung thêm nội dung đó; và có một phần nội dung nói về nét đẹp xinh đẹp tuyệt vời của Thúy Kiều
và Thúy Vân. Vậy nên, các câu tiếp theo phải là các câu lần lượt nói về nét đẹp của hai nhân vật này,
đó là câu (4) và câu (5). Ngoài vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân, người viết còn muốn nhắc đến
cái tài và số phận của Thúy Kiều. Nên câu tiếp theo phải là câu (2) và phải thay đại từ thay thế nàng
bằng tên nhân vật cụ thể, ở đây là Kiều. Kế tiếp là câu (6) đã bỏ đi từ còn (vì nó không ở trong tình
thế “sóng đôi” với câu phía trước) và câu (7) vẫn nằm ở vị trí sau cùng.
Vì vậy, để cho ngữ liệu đó có thể trở nên thống nhất, chặt chẽ, thì chúng ta phải sắp xếp lại
trật tự các câu, các vế câu và có thể thêm bớt hoặc thay đổi một số từ ngữ một cách hợp lí. Có thể
viết lại đoạn văn trên như sau:
“(1) Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. (2) Họ sống êm ấm
dưới một mái nhà, sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ, cùng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. (3)
Vẻ đẹp của Kiều hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. (4) Còn Vân có nét đẹp đoan trang thùy
mị. (5) Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. (6) Về tài thì nàng hơn hẳn Thúy Vân. (7) Thế nhưng
nàng đâu có được hưởng hạnh phúc”.
Viết lại thế này thì chúng ta đã có một “văn bản” thống nhất, liên kết chặt chẽ. Câu (2) gắn
kết được với câu