Như chúng ta đã biết, lãi suất là một trong những biến số dược theo dõi một cách chặt 
chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện 
thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của 
cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. 
Bài viết này sẽ cho người đọc thấy được và hiểu được một số vấn đề cơ bản về lãi suất, 
phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế, các nhân tố tác động đến lãi suất, và vai trò 
của lãi suất đối với nền kinh tế. Từ đó người đọc sẽ thấy được vai trò, sự cần thiết của lãi 
suất.
Từ việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lãi suất, thấy rõ tầm quan trọng của lãi 
suất,từ đó vận dụng vào thực tiễn vào Việt nam nhận thấy lãi suất được điều hành dưới 
hình thức các chính sách lãi suất trong từng thời kỳ. Chính sách lãi suất là một công cụ 
quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 
và kiềm chế lạm phát.lãi suất được sử dụng linh hoạt sẽ có tác động tích cực đến nền kinh 
tế. Ngược lại lãi suất được giữ một các cố định, có thể kích thích tăng trưởng kinh tế những 
sang thời kỳ khác, nó trở thành vật cản cho sự phát triển kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tác giả chọn đề tài “Lý luận chung về 
lãi suất và vai trò của lãi suất đối với quá trình phát triển kinh tế.” để viết đề án. Bố cục 
gồm 2 phần chính 
Phần I: Lý luận chung về lãi suất và vai trò của lãi suất đối với quá trình phát triển kinh 
tế.
Phần II: Các chính sách lãi suất được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 38 trang
38 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lý luận chung về lãi suất và vai trò của lãi suất đối với quá trình phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN: 
Lý luận chung về lãi suất và vai trò 
của lãi suất đối với quá trình phát 
triển kinh tế 
Lời mở đầu 
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một trong những biến số dược theo dõi một cách chặt 
chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện 
thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của 
cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. 
Bài viết này sẽ cho người đọc thấy được và hiểu được một số vấn đề cơ bản về lãi suất, 
phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế, các nhân tố tác động đến lãi suất, và vai trò 
của lãi suất đối với nền kinh tế. Từ đó người đọc sẽ thấy được vai trò, sự cần thiết của lãi 
suất. 
Từ việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lãi suất, thấy rõ tầm quan trọng của lãi 
suất,từ đó vận dụng vào thực tiễn vào Việt nam nhận thấy lãi suất được điều hành dưới 
hình thức các chính sách lãi suất trong từng thời kỳ. Chính sách lãi suất là một công cụ 
quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 
và kiềm chế lạm phát.lãi suất được sử dụng linh hoạt sẽ có tác động tích cực đến nền kinh 
tế. Ngược lại lãi suất được giữ một các cố định, có thể kích thích tăng trưởng kinh tế những 
sang thời kỳ khác, nó trở thành vật cản cho sự phát triển kinh tế. 
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tác giả chọn đề tài “Lý luận chung về 
lãi suất và vai trò của lãi suất đối với quá trình phát triển kinh tế..” để viết đề án. Bố cục 
gồm 2 phần chính 
Phần I: Lý luận chung về lãi suất và vai trò của lãi suất đối với quá trình phát triển kinh 
tế. 
Phần II: Các chính sách lãi suất được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua. 
Phần I : 
Lý luận chung về lãi suất và vai trò của lãi suất đối với quá trình phát triển kinh 
tế. 
I - lãi suất – khái niệm và bản chất. 
Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một 
cách chặt chẽ nhất bởi nó quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người trong xã 
hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm đề đầu tư. Sự 
thay đổi lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi doanh nghiệp: vay vốn để 
mở rộng sản xuất hay cho vay tiền để hưởng lãi suất, hoặc đầu tư vào đâu thì có lợi nhất. 
Thông qua những quyết định của các cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến mức 
độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước. 
1. Các lý thuyết kinh tế về bản chất của lãi suất 
1.1. lý thuyết của C.Mác về lãi suất. 
* Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế hàng hoá 
TBCN 
Qua qúa trình nghiên cứu bản chất của cntb Mác đã vạch ra rằng quy luật giá trị thặng 
dư tức giá trị lao động không của công nhân làm thuê tạo ra là quy luật kinh tế cơ bản của 
chủ nghia tư bản và nguồn gốc của mọi lãi suất đều xuất pháttừ giá trị thặng dư. 
Theo Mác, khi xã hội ptr thì tư bản tài sản tách rời Tư bản chức năng, tức là quyền sở 
hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá 
trị thặng dư thì không thay đổi. Vì vậy, trong xã hội phát sinh quan hệ dho vay và đi vay, 
đã là tư bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dụng, tư bản cho vay được 
hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm gọi là lợi tức. 
Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải 
cho nhà tư bản vay. Trên thực tế nó là một bộ phận của lnh bình quân mà các nhà tư bản 
công thương nghiệp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho vay. Do đó nó là biểu hiện 
quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được mở rộng trong lĩnh vực phân phối và giơí hạn tối đa 
của lợi tức là lnh bình quân, còn giới hạn tối thiểu thì không có nhưng luôn lớn hơn không. 
Vì vậy sau khi phân tích côg thức chung của tư bản và hình thái vận động đầy đủ của 
tư bản Mác đã kết luận:”Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao 
động làm thuê bị tư bản bị tư bản – chủ ngân hàng chiếm đoạt”. 
* Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế XHCN 
Các nhà kinh tế học Mác xít nhìn nhận trong nền kinh tế XHCN cùng với tín dụng, sự 
tồn tại của lãi suất và tác động của nó do mục đích khác quyết định, đó là mục đích thoả 
mãn đầy đủ nhất các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội. Lãi suất không chỉ là 
động lực của tín dụng mà tác dụng của nó đối với nkt phải bám sát các mục tiêu kinh tế. 
Trong XHCN không còn phạm trù tư bản và chế độ người bóc lột người song điều đó 
không có nghĩa là ta không thể xác định bản chất của lãi suất. Bản chất của lãi suất trong 
xã hội chủ nghĩa là “giá cả của vốn cho vay mà nn sd với tư cách là công cụ điều hoà hoạt 
đọng hạch toán kinh tế ” 
Qua những lãi suất luận trên ta thấy các nhà kinh tế học Mác xít đã chỉ rõ nguồn gốc 
và bản chất lãi suất. Tuy nhiên quan điểm của họ không thể hiện được vai trò của lãi suất 
và các biến số kinh tế vĩ mô khác. ngày nay trước sự đổ vỡ của hệthống XHCN, cùng với 
chính sách làm giàu chính đáng , chính sách thu hút đầu tư lâu dài… đã không phù hợp với 
các chính sách trước đây vì nó tôn trọng quyền lợi người đầu tư, người có vốn, thừa nhận 
thu nhập từ tư bản. 
1.2 Lý thuyết của J.M. Keynes về lãi suất: 
J.M. KEYNES (1833-1946) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh cho rằng lãi suất 
không phải là số tiền trả công cho việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu vì khi tích trữ tiền mặt 
người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả khi trường hợp tích trữ rất 
nhiều tiền trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Vì vậy: “Lãi suất chính là sự trả 
công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản”. lãi suất do đó còn được 
gọi là sự trả công cho sự chia lìcan với của cải, tiền tệ.” 
1.3 Lý thuyết của trường phái trọng tiền về lãi suất: 
M.Friedman, đại diện tiêu biểu của trường phái trọng tiền hiện đại, cũng có quản điểm 
tương tự J.M.KEYNES rằng lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ. Tuy nhiên quan điểm 
của M. Friedman khác cơ bản với Keynes ở việc xác định vai trò của lãi suất. Nừu Keynes 
cho rằng cầu tiền là một hàm của lãi suất còn M.Friedman dựa vào nghiên cứu các tài liệu 
thực tế thống kê trong một thời gian dài, ông đi đế khẳng định mức lãi suất không có ý 
nghĩa tác động đến lượng cầu về tiền mà cầu tiền biểu hiện là một hàm của thu nhập và đưa 
ra khái niệm tính ổn định cao của cầu tiền tệ. 
Có thể thấy rằng : quan điểm coi lãi suất là kết quả hoạt động của tiền tệ đã rất thành 
công trong việc xác định các nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng. Tuy nhiên hạn 
chế của cách tiếp cận này là suy bản chất của lợi tức là bản chất của tiền và dừng lại ở việc 
nghiên cứu cụ thể. 
Tóm lại, lãi suất là tỷ lệ % giữa khoản tiền người đi vay phải trả thêm cho người cho 
vay trên tổng số tiền vay đầu một thời hạn nhất định để được sd tiền vay đó. 
2 - Các phép đo lãi suất 
Phép đo chính xác nhất là lãi suất hoàn vốn. Nó là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại 
của khoản tiền trả trong tương lai với giá trị hôm nay cuả nó. Vì khái niệm tiềm ẩn trong 
việc tính lãi suất hoàn vốn có ý nghĩa tốt về mặt kinh tế. Nó tính cho 4 công cụ thị thị 
trường tín dụng: 
2.1. Vay đơn: 
 nn iPF  1 
Fn: số tiền vay và lãi thu về trong tương lai. 
P,n,i: số tiền vay ban đầu, thời hạn vay tín dụng và lãi suất đơn. 
2.2. Vay hoàn trả cố định: 
     ni
FP
i
FP
i
FP
i
FP
TV
1111 32
 
TV: toàn bộ món tiền vay 
FP: số tiền trả cố định hàng năm. 
N: số năm cho tới mãn hạn 
2.3. trái khoán coupon: 
     ni
F
i
C
i
C
i
C
Pb
1111 32
 
Pb: giá trái khoán 
C : Tiền coupon hàng năm 
F : Mệnh giá trái khoán 
n : số năm tới ngày mãn hạn. 
2.4. Trái khoán giảm giá. 
Pd
PdF
i
 
F: mệnh giá của trái khoán giảm giá 
Pd: Giá hiện thời của trái khoán. 
3. Phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế khác: 
3.1. lãi suất với giá cả 
Lãi suất được coi là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay, vì nó trả cho giá trị sd của vốn 
vay - đó chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Lãi suất cũng 
biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn như giá cả hàng hoá thông thường. 
Nhưng lãi suất là giá cả cho quyền sử dụng mà không phải quyền sở hữu, hơn nữa không 
phải quyền sử dụng vĩnh viễn mà chỉ trong một thời gian nhất định. Thêm vào đó, lãi suất 
khôg phải là biểu hiện bằng tiền giá trị vốn vay như giá cả hàng hoá thông thường, mà nó 
độc lập tương đối – thường nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay. 
3.2. Lãi suất với lợi tức. 
Đối với một chứng khoán bất kỳ, lợi tức được định nghĩa là tiền lãi trả cho chủ sở hữu 
cộng với những thay đổi về giá trị của chứng khoán đó. 
Tỷ suất lợi tức là tỷ số lợi tức chia cho giá mua. 
Ví dụ: Một người mua một trái khoán chính phủ mệnh giá 1 triệu VND, thời hạn 5 
năm, lãi suất 12% năm. sau một năm anh ta bán trái khoán đó với giá 1,2 triệu VND. 
Tiền lãi: 12%*1.000.000 = 120.000 VND 
Lợi tức chứng khoán: 
(12%*1.000.000) + (1.200.000 – 1.000.000) = 320.000 VND. 
Tỷ suất lợi tức: 320.000/1.000.000 = 32% 
Qua ví dụ trên ta có thể thấy rõ sự khác nhau giữa lãi suất và lợi tức của một chứng 
khoán bất kỳ. 
3.3.Lãi suất thực với lãi suất danh nghĩa. 
Từ lâu nay chúng ta đã quên mất tác dụng của lạm phát đối với chi phí vay mượn. Cái 
mà chúng ta gọi là lãi suất không kể đến lạm phát cần được gọi một các chính xác hơn là 
lãi suất danh nghiã để phân biệt với lãi suất thực. Lãi suất danh nghĩa là lãi suất cho ta biết 
sẽ thu được bao nhiêu đồng hiện hành về tiền lãi nếu cho vay một trăm đồng trong một 
đơn vị thời gian(năm, tháng…). Như vậy sau khoảng thời gian đó ta sẽ thu được một khoản 
tiền gồm gốc và lãi. Tuy nhiên giá cả hàng hoá không ngứng biến động do lạm phát, điều 
chúng ta quan tâm là lúc đó số tiền gốc và lãi sẽ mua được bao nhiêu hàng hoá. 
Lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự 
tính về mức giá, thể hiện mức lãi theo số lượng hàng hoá và dịch vụ. 
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực được Fisher phát biểu thông qua 
phương trình mang tên ông như sau: 
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát dự tính 
Công thức xác định lãi suất thực này được sử dụng phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, công 
thức này không chú ý đến tổng lãi thu được phải chịu thuế thu nhập. Nếu tính đến yếu tố 
thuế thì: 
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – Thuế thu nhập biên thực tế – Tỷ lệ lạm phát 
dự tính 
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 
Như chúng ta đã biết lãi suất tín dụng ngân hàng được xác định trên cơ sở cân bằng 
cung cầu tiền gửi, tiền cho vay trên thị trường. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới hình 
thái diễn biến của lãi suất chính là những nhân tố tác động làm thay đổi cung cầu tiền vay. 
Phân tích diễn biến lãi suất trên thị trường trái khoán (khuôn mẫu tiền vay) và trên thị 
trường tiền tệ (khuôn mẫu ưa thích tiền mặt) tuy có những đặc điểm khác nhau nhưng đều 
mang lại những kết quả tương đương nhau trong việc xem xét vấn đề lãi suất được xác 
định như thế nào. 
Bây giờ sẽ sử dụng tổng hợp hai phương pháp: khuôn mẫu tiền vay và khuôn mẫu tiền 
mặt, đồng thời chú ý đến những đặc điểm của nền kinh tế hiện đại để phân tích các nhân tố 
ảnh hưởng tới lãi suất. 
1. Của cải – tăng trưởng. 
Phân tích khuôn mẫu tiền mặt cho thấy khi của cải tăng lên trong thời kỳ tăng trưởng 
kinh tế của một chu kỳ kinh tế, lượng cầu tiền sẽ tăng do mọi người gia tăng tiêu dùng 
hoặc đầu tư hay chỉ đơn giản là muốn giữ thêm tiền làm nơi trữ gía trị. Kết quả là đường 
cầu tiền dịch chuyển về bên phải trong khi đường cung tiền do chính phủ quy đinhj đường 
thẳng đứng. Như vậy khuôn mẫu tiền mặt phân tích diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ 
đưa đến kết luận: “Khi của cải tăng lên trong giai đoạn tăng trưởng của chu kỳ kinh tế(các 
biến số khác không đổi) lãi suất sẽ tăng lên và ngược lại”. 
Lãi 
i
i
Ms 
Md1 
Md2 E1 
E2 
Hình 1.1: Mô tả mối liên hệ giữa tăng trưởng và lãi 
suất. Khi của cải tăng lên đường cầu tiền dịch 
chuyển sang phải từ Md đến Md làm lãi suất từ i đến 
2. Khả năng sinh lời dự tính của các cơ hộ đầu tư 
càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi mà một doanh nghiệp dự tính có thể làm thì doanh 
nghiệp sẽ càng có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư vay nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu 
tư này. Khi nền kinh tế đang phát triển nhanh có rất nhiều cơ hội đầu tư được trông đợi là 
sinh lợi, do đó lượng cầu tiền cho vay ở mỗi giá trị lãi suất tăng lên. 
3. Lạm phát dự tính: 
Như ta đã biết, chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng lãi 
suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Do đó một lãi suất cho trước, khi 
lạm phta dự tính tăng lên, chi phí thực hiện việc vay tiền giảm xuống nên cầu tiền vay tăng 
lên. Mặt khác khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của những khoản tiền gửi 
giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển vốn tiền tệ vào một thị trường khác như 
thị trường bất động sản hay dự trữ hang hoá, vàng bạc… Kết quả lượng cung tư bản cho 
vay giảm đối với bất kỳ lãi suất nào cho trước. 
Hình 1.2: ảnh hưởng 
tăng khả năng sinh 
lời dự tính của các 
cơ hội đầu tư tới 
lãi suất. Đường cầu 
tăng dịch chuyển từ 
D1 tới D2. lãi suất 
tằng từ i1 tới i2. 
Vởy tăng cơ hội đầu 
tư sinh lợi sẽ làm 
tăng lãi suất do 
Lãi 
i
i
Md1 
Md2 
Lượng 
tiền 
S 
Như một sự thay đổi về lạm phát dự tính sẽ tác động đến cung cầu tư bản cho vay. Cụ 
thể, tăng lạm phát dự tính sẽ làm tăng lãi suất do giảm lượng cung ứng và tăng cầu về tư 
bản. 
4. Thay đổi mức giá 
khi mức giá tăng lên, cùng với một lượng tiền như cũ hàng mà nó mua được sẽ ít hơn, 
nghĩa là giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Để khôi phục lại tài sản của mình dân chúng 
muốn giữ một lượng tiền danh nghĩa lớn hơn do đó làm đường cầu tiền dịch chuyển sang 
phải. Điều đó chứng tỏ rằng khi mực giá tăng lên, các biến số khác không đổi, lãi suất sẽ 
tăng. 
Hình 1.2: Mô tả mối 
liên hệ giữa lạm 
phát dự tính và lãi 
suất. Lạm phát dự 
tính tăng dần đến 
cầu về tư bản cho 
vay tăng từ D1 đến D2 
đồng thời cung giảm 
Lãi 
i
i
Lượng 
tiền 
S1 
S2 
D1 
D2 
Ms 
Lãi 
i
i
Md1 
Md2 
Lượng 
tiền 
E2 
E1 
Hình 1.4: Quan hệ 
giữa mức giá và lãi 
suất P tăng làm dịch 
chuyển từ Md1 đến 
d2, lãi suất tăng từ 
5. Hoạt động thu, chi của Nhà nước 
Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với 
ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách Nhà nước là một trong những nhân 
tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn đến lãi suất 
tăng. Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền 
trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất. 
Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định 
chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán 
lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ, dẫn tới việc găm tiền 
lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng 
lên. 
Trường hợp bội thu ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất giảm do sự vận động ngược lại với 
trường hợp chi ngân sách. 
6. Tỷ giá hối đoái 
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá 
do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều 
nhân tố như giá cả, thuế… trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia 
nào, nếu muốn tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và 
thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nv tỷ giá hối đoái 
giảm, xuất khẩu tăng lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, 
tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên. 
Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu 
tỷ giá hối đoán tăng lên, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một 
nước so với các nc khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nc sẽ tăng 
lên và ngược lại. 
7. Lượng tiền cung ứng 
Qua phân tích trên cho thấy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất nhưng nhân tố 
ảnh hưởng lớn và nhạy cảm với lãi suất là lượng tiền cung ứng. Vậy lượng tiền cung ứng 
thay đổi thì nó có tác động đến lượng tiền cung ứng như thế nào? 
Một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng gây ra 4 tác động đối với lãi suất: tác dụng 
tính lỏng, tác dụng tính thu nhập, tác dụng mức giá, tác dụng lạm phát dự tính. 
- Tác dụng tính lỏng cho biết một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng sẽ làm giảm nhẹ 
lãi suất, bởi vì đường cung tiền sẽ dịch chuyển sang phải. 
e ($/đ) 
e
e
D1(đ) 
Q 
S(đ
)
D2(đ
) 
E ($/đ) 
E2 
E1 D(đ) 
Q 
S1(
đ)
S2(
đ)
Hình 1.7: 
Mô tả khi 
đồng nội 
tệ giảm 
giá,
e($/đ) 
giảm làm 
xuất khẩu 
tăng, S($) 
tăng hay 
- Tác dụng thu nhập chỉ ra rằng do tăng lượng tiền cung ứng sẽ có ảnh tốt đến nền kinh 
tế, sẽ làm tăng thu nhập khi đó lãi suất sẽ tăng lên. Vì đường cầu tiền lúc này sẽ dịch 
chuyển sang phải. 
- Tác dụng mức giá cho biết một sự tăng lượng tiền cung ứng sẽ làm mức giá chung 
tăng lên và kết qủa lãi suất cân bằng tăng. 
- Tác dụng lạm phát dự tính: sự tăng lên lượng tiền cung wngs sẽ làm dân cúng dự tính 
một mức lạm phát cao hưn trong tương lai. Kết quả là lãi suất tăng lên. 
Trong 4 tác dụng trên chỉ có tác dụng tính lỏng chỉ ra rằng một sự tăng lên của lượng 
tiền cung ưngs sẽ làm giảm lãi suất trong khi các tác dụng khác thì ngược lại. Nghiên cứu 
thực tiễn cho thấy tác dụng thu nhập, mức giá và lạm phát dự tính vượt trội so với tính 
lỏng. 
Vì vậy một sự tăng lượng tiền cung ứng dẫn đến việc tăng lãi suất trong dài hạn. 
III. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế 
1. Lãi Suất với quá trình huy động vốn. 
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời gian. 
Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và quá trình lâu 
dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh 
tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận 
thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong 
việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và cacs tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định 
hướng vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-
HĐH nước ta hiện nay. 
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải boả tồn 
được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể: 
+ Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. 
+ Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay) 
2. Lãi suất với quá trình đầu tư 
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự 
tính lợi nhuận thu được từ taì sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi 
vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành 
mở rộng đâu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh 
nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay 
cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào 
ngân hàng nếu lãi suât của nó cao 
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu 
hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất 
phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các 
doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. 
Mối quan hệ giữa đầu tư và