Chiến thắng đông - xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (1954), cam
kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân
dân ba nước Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng và
bước vào thời kì quá độ đi lên CNXH. Ở miền Nam, đế quốc Mĩ từng bước
gạt Pháp và dựng lên chính quyền tay sai do Ngô Đình Diệm cầm đầu. Chúng
âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến nước ta trở thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự để thực hiện các mục đích xâ m lược. Từ đây, nhân dân ta
tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh đương đầu với một kẻ thù xâm lược có tiềm
lực kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới.
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ (1954-1975) một lần nữa đã khẳng
định tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm chống ngoại xâ m của dân tộc ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta ở hai miền đất nước lần lượt đập
tan các chiến lược chiến tranh, mọi mưu đồ xâm lược của kẻ thù để tiến tới
hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
108 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2212 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mỏ than vàng danh trong thời kì kháng chiến chống mĩ cứu nước (những năm 1965 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
MAI THANH TÙNG
MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC
(NHỮNG NĂM 1965-1975)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN XUÂN MINH
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Xuân Minh đã nhiệt
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử -
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công ty Cổ
phần than Vàng Danh, Ban Tuyên giáo và Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Ninh
đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả
Mai Thanh Tùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chiến thắng đông - xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (1954), cam
kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân
dân ba nước Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng và
bước vào thời kì quá độ đi lên CNXH. Ở miền Nam, đế quốc Mĩ từng bước
gạt Pháp và dựng lên chính quyền tay sai do Ngô Đình Diệm cầm đầu. Chúng
âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến nước ta trở thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự để thực hiện các mục đích xâm lược. Từ đây, nhân dân ta
tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh đương đầu với một kẻ thù xâm lược có tiềm
lực kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới.
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ (1954-1975) một lần nữa đã khẳng
định tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta ở hai miền đất nước lần lượt đập
tan các chiến lược chiến tranh, mọi mưu đồ xâm lược của kẻ thù để tiến tới
hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải
trực tiếp đương đầu với hai lần giặc Mĩ leo thang phá hoại và làm nghĩa vụ
hậu phương chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các ngành, các giới trên toàn miền Bắc đã nỗ lực tham gia
sản xuất với khẩu hiệu " Vì miền Nam ruột thịt ", " Tất cả để đánh thắng giặc
Mĩ xâm lược ". Trên toàn miền Bắc, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã
xuất hiện nhiều nhà máy, công trường, xí nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn,
tích cực sản xuất, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Với khẩu hiệu "Vừa sản xuất, vừa chiến đấu", công nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
ở các nhà máy, công trường kiên quyết không rời vị trí chiến đấu mỗi khi máy
bay địch xuất hiện, giữ vững nhịp độ sản xuất phục vụ đời sống nhân dân và
nhu cầu của cuộc kháng chiến.
Để thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất đòi
hỏi Đảng và nhân dân ta phải có quyết tâm cao, có tinh thần sáng tạo, vận
dụng linh hoạt cả qui luật chiến tranh cách mạng và qui luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất ở miền Bắc có quan hệ khăng khít
với nhau, đồng thời quan hệ với cuộc chiến đấu ở miền Nam. Sản xuất nhằm
phục vụ cho cuộc chiến đấu tại chỗ ở miền Bắc vừa cho cả cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở miền Nam. Mặt khác, chiến đấu còn nhằm bảo vệ sản xuất,
bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phối hợp với cuộc
chiến đấu ở miền Nam.
Từ trong phong trào yêu nước, quân và dân ta ở miền Bắc đã tỏ rõ sức
mạnh của một dân tộc có truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù,
chiến đấu dũng cảm, nêu cao tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, giành nhiều thắng lợi trong lao động sản xuất và xây dựng đất nước.
Thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã góp phần
to lớn chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam, động viên tinh
thần cho quân và dân miền Nam chiến đấu trên trận tuyến chống quân thù.
Mỏ than Vàng Danh được thành lập theo Quyết định số 262/BCNNg-
KB2, ngày 6-6-1964, trong bối cảnh cả miền Bắc đang ra sức thực hiện thắng
lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Trong hoàn cảnh đó, Mỏ than
Vàng Danh vừa củng cố bộ máy tổ chức và cải tiến kĩ thuật, đẩy nhanh tốc độ
sản xuất phục vụ công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa hai lần đương
đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ và không ngừng chi viện cho
chiến trường miền Nam. Những kết quả đạt được của Mỏ than Vàng Danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
trên cả mặt trận sản xuất và chiến đấu đã cho thấy sự quan tâm, chỉ đạo kịp
thời của Đảng và ngành Than đối với Mỏ, tinh thần vượt khó vươn lên, dám
nghĩ, dám làm của các thế hệ thợ mỏ than Vàng Danh, biết phát huy cao độ
khẩu hiệu Kỉ luật - Đồng tâm để góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Từ lí do trên đây, chúng tôi chọn "Mỏ than Vàng Danh trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (những năm 1965-1975)" làm Luận văn
Thạc sĩ khoa học Lịch sử.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tìm hiểu về hoạt động sản xuất và chiến đấu của công nhân nói chung,
công nhân ngành than nói riêng là đề tài thu hút được sự quan tâm của giới
nghiên cứu lịch sử ở cả Trung ương và địa phương.
Trong những thập niên gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
cuốn sách, bài viết, hồi kí.. của các học giả được công bố về hoạt động của
các mỏ than trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trong đó có Mỏ
than Vàng Danh.
Đề tài lịch sử nghiên cứu về 21 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước (1954-1975) đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu
lịch sử. Đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản có giá trị
khoa học và thực tiễn to lớn.
Trong những thập niên 90 của thế kỉ trước, Trung ương đã thành lập Ban
chỉ đạo tổng kết cuộc chiến tranh, xuất bản cuốn "Tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mĩ - Thắng lợi và bài học", 1996; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên
soạn "Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước", Tập 1 - Tập 2, (Nxb Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
thật, 1991); và "Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam", (Nxb Quân đội
nhân dân, 1997)…
Đề tài về cuộc kháng chiến chống Mĩ nhận được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà nghiên cứu. Văn Tiến Dũng biên soạn "Cuộc kháng chiến chống
Mĩ - Bước ngoặt lớn", (Nxb Sự thật, 1989) và "Cuộc kháng chiến chống Mĩ -
Toàn thắng", (Nxb Sự thật, 1991). Những công trình nghiên cứu trên đã cho
thấy sự chỉ đạo kịp thời, đúng đắn về đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng
thời ghi lại những dấu mốc lịch sử quan trọng có tính bước ngoặt của cuộc
kháng chiến. Nhà nghiên cứu Hồ Khang biên soạn "Tết Mậu Thân - Bước
ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước", (2005); Phan Ngọc Liên
biên soạn "Hậu phương lớn - Tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước" (1954-1975),(2005)… Những tác phẩm của các nhà nghiên
cứu nêu trên, tuy không đề cập đến hoạt động của Mỏ than Vàng Danh nhưng
là nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi tham khảo khi tìm hiểu, nghiên cứu
về quá trình chiến đấu của lực lượng tự vệ Mỏ than Vàng Danh chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ Mỏ và giữ vững nhịp độ sản xuất.
Ở địa phương, công tác chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh và các địa
phương, lịch sử các ngành, nghề, các nhà máy, xí nghiệp... rất được coi trọng.
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh biên soạn "Lịch sử phong trào công
nhân khu mỏ than Quảng Ninh", tập III (1820-1975), (1996); "Quảng Ninh
đất và người", (Nxb Lao động - Xã hội, 2005)..
Ngoài các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương,
hướng tìm hiểu về lịch sử phong trào công nhân cũng được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về đề tài này;
Hoàng Quốc Việt biên soạn "Giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam trên con đường cách mạng dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội", (Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
Sự thật, 1959); Hữu Tuấn biên soạn "Công nhân đô thị trên tuyến đầu Tổ
quốc" (Nxb Lao động xã hội,1965); Văn Tạo và Đinh Thu Cúc đồng biên
soạn "Giai cấp công nhân miền Bắc Việt Nam" (1955-1960) và "Giai cấp
công nhân miền Bắc trong thời kì khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế,
phát triển văn hoá" (1955-1960), (Nxb Uỷ ban Khoa học Xã hội, 1974); Lê
Duẩn với tác phẩm "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam và nhiệm vụ
của công đoàn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa", (Nxb Sự thật, 1975);
Hoàng Quốc Việt biên soạn "Vai trò, xứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân", (Nxb Lao động, 1976); Cao Văn Biền biên soạn "Giai cấp công nhân
Việt Nam thời kì 1936-1939", Uỷ ban KHXH Việt Nam, 1979); Ngô Văn
Hoà, Dương Kinh Quốc biên soạn "Giai cấp công nhân Việt Nam những năm
trước khi thành lập Đảng", (Nxb KHXH,1978); Thi Sảnh biên soạn " Lịch sử
phong trào công nhân Mỏ Quảng Ninh", tập 2, (1983); Phạm Quang Toàn và
Nguyễn Hữu Hợp (chủ biên), "Giai cấp công nhân Việt Nam thời kì 1945-
1954", (Nxb Khoa học Xã hội, 1987); Trần Văn Giàu biên soạn "Giai cấp
công nhân Việt Nam", (2003).
Từ năm 2002 trở lại đây, thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28-8-2002
của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công văn số 218 - CV/TG ngày 27-3-2006
của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh về "Đẩy mạnh công tác nghiên cứu,
biên soạn lịch sử Đảng bộ", công văn số 367-CV/TU ngày 26-3-2008 của
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh về "Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ và lịch sử truyền thống", các đơn vị
cấp huyện và cơ sở trong tỉnh đã tiến hành sưu tầm biên soạn lịch sử Đảng và
lịch sử truyền thống. Đến nay, đã có 14/14 huyện, thị xã, thành phố biên soạn
và phát hành rộng rãi lịch sử đảng bộ cấp huyện; lịch sử kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị
xã Uông Bí biên soạn "Lịch sử Đảng bộ Thị xã Uông Bí", tập 1, (2006);
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
nhiều xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố biên soạn được lịch sử đảng
bộ xã. Đối với các mỏ than trên địa bàn tỉnh cũng rất coi trọng công tác biên
soạn lịch sử ngành, lịch sử truyền thống của đơn vị. Đến nay, các công ti than
Vàng Danh, Núi Béo, Cao Sơn, Đèo Nai, Cọc Sáu, Hòn Gai, Hà Tu, Hà Lầm,
Mạo Khê… lần lượt biên soạn lịch sử ngành. Riêng đối với Mỏ than Vàng
Danh, năm 2004, nhân dịp kỉ niệm 40 năm ngày thành lập đã biên soạn
"Truyền thống công nhân mỏ - Công ty than Vàng Danh", (1964-2004), (Nxb
Chính trị Quốc gia, 2004). Tiếp đó, vào năm 2009, Công ti than Vàng Danh
tiếp tục biên soạn " 45 năm truyền thống công nhân mỏ Công ti Cổ phần than
Vàng Danh - TKV (1964-2009)", (Nxb Chính trị Quốc gia, 2009) trên cơ sở
kế thừa nguyên bản từ cuốn sách trước (2004), được sưu tầm và biên soạn tiếp
giai đoạn 2004-2009. Hai cuốn sách cho đến nay viết về Mỏ than Vàng Danh
được các nhà nghiên cứu biên soạn theo phương pháp lịch sử truyền thống. Việc
Công ti than Vàng Danh xuất bản hai cuốn sách là cơ sở quan trọng để chúng tôi
tham khảo khi nghiên cứu, bổ sung thêm tư liệu để thực hiện đề tài này.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống Mỏ than Vàng Danh trong những năm 1965-
1975. Chúng tôi đánh giá rất cao những công trình kể trên và coi đó là những
nguồn tài liệu quý giúp chúng tôi hoàn thành Luận văn này.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động sản xuất và chiến đấu của Mỏ than Vàng Danh trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (những năm 1965-1975).
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Mỏ than Vàng Danh xét theo giới hạn địa lí thời kì
1965-1975.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
- Thời gian: Từ năm 1965 đến năm 1975. Tuy nhiên, để làm rõ yêu cầu
của đề tài, Luận văn đề cập đến tình hình Mỏ than Vàng Danh thời gian trước
năm 1965.
3.3 Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát tình hình Mỏ than Vàng Danh từ cuối thế kỉ XIX đến trước
khi thành lập Mỏ. Đời sống khốn cùng của công nhân dưới bàn tay cai trị tàn
bạo của thực dân Pháp.
- Qúa trình thành lập Mỏ cùng với nhiệm vụ sản xuất và trực tiếp hai lần
đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.
- Sự đóng góp của Mỏ than Vàng Danh trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mĩ cứu nước nói chung và cách mạng giải phóng miền Nam nói riêng.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các văn kiện
Đảng, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lần về thăm
và nói chuyện với công nhân vùng Mỏ; các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học đã được công bố, các bài viết đăng trên tạp chí, các hồi kí,
bút kí cùng các nhân chứng lịch sử đã trực tiếp lãnh đạo hoặc tham gia vào
quá trình sản xuất, chiến đấu của Mỏ than Vàng Danh trong những năm từ
1965 đến 1975.
4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp lôgic là chủ yếu. Các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu,
tổng hợp cũng được sử dụng để làm sáng tỏ nội dung của đề tài. Ngoài ra,
chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn nhân chứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn trình bầy một cách cơ bản và hệ thống quá trình thành lập
cũng như từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu để ổn định sản xuất
của Mỏ than Vàng Danh.
- Luận văn làm rõ vị trí, tầm quan trọng của mặt trận sản xuất than
cho đất nước, đặc biệt trong hoàn cảnh miền Bắc vừa có hoà bình, vừa
có chiến tranh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu để nghiên cứu, giảng dạy và học tập
lịch sử địa phương ở các trường chuyên nghiệp và phổ thông.
- Luận văn góp phần vào việc giáo dục truyền thống và niềm tự hào quê
hương, đất nước cho thế hệ trẻ, trước hết là các thế hệ công nhân Mỏ.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu thành 3 chương nội dung:
Chương 1: Mỏ than Vàng Danh trƣớc năm 1965.
Chương 2: Mỏ than Vàng Danh trong thời kì 1965-1968.
Chương 3: Mỏ than Vàng Danh trong thời kì 1968-1975.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
Chƣơng 1
MỎ THAN VÀNG DANH TRƢỚC NĂM 1965
1.1 KHÁI QUÁT VỀ MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ PHÁP THUỘC
VÀ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1894 - 1954)
1.1.1 Mỏ than Vàng Danh trong thời thuộc Pháp (1894-1945)
Mỏ than Vàng Danh là một đơn vị kinh tế nằm trên địa bàn hành chính
phường Vàng Danh thuộc khu vực rừng núi Yên Tử - Bảo Đài. Mỏ than Vàng
Danh trong vòng cung Đông Triều, cách thủ đô Hà Nội 165 km, Hải Phòng
55 km và trung tâm thị xã Uông Bí 12 km. Về phía bắc, Mỏ giáp huyện Sơn
Động (Bắc Giang), phía nam giáp phường Bắc Sơn (thị xã Uông Bí), phía
đông giáp huyện Hoành Bồ và cách thành phố Hạ Long khoảng 50 km, phía
tây là khu danh lam thắng tích Yên Tử.
1.1.1.1 Tình hình khai thác của thực dân Pháp và các cuộc đấu tranh của
công nhân Mỏ than Vàng Danh
* Tình hình khai thác và chính sách bóc lột công nhân mỏ than Vàng
Danh của thực dân Pháp
Dưới thời Nguyễn, ở Vàng Danh chỉ có vài chục gia đình người Kinh
sống tập trung ở hai xóm thuộc Thượng Mộ Công, một số gia đình người Dao
ở Lán Tháp, Nam Mẫu trong khu vực núi Yên Tử. Khi đó, một số người Hoa
đã được triều đình cho phép khai thác than ở đây nhưng do sử dụng phương
pháp thủ công nên số lượng than khai thác được không đáng kể.
Nhận thấy Vàng Danh nằm trên bể than vùng Đông Bắc, theo mạch Cái
Bầu - Mạo Khê chạy dài 125 km chủ yếu là than đá ăngtơraxit chất lượng tốt,
nhiệt lượng cao, nên giới tư bản khai khoáng người Pháp tìm mọi thủ đoạn để
độc chiếm vùng mỏ này. Sau một thời gian vận động, ngày 15-2-1894,
Xalađanh đã được Toàn quyền Đông Dương ra nghị định nhượng bán cho khu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
vực đất mỏ nằm trên tổng Bí Giàng, thuộc huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên
với diện tích 1.080 ha.
Năm 1910, Đờrăngđông sang Việt Nam và bắt tay vào khảo sát khu vực
Vàng Danh-Uông Bí. Nhận thấy đây là vùng mỏ có trữ lượng cao về than đá
nên ông ta tìm mọi cách chiếm đoạt quyền khai thác. Và chỉ 2 năm sau
(1912), Đờrăngđông đã chiếm được mỏ Uông Bí-Vàng Danh. Năm 1914,
những mẻ than khai thác đầu tiên đã cho nhiều hứa hẹn, do đó đã thu hút
Thống đốc Nam Kì Bơlăngsa đờ la Bơrôsơ (Blanchard de la Broche) và viên
Thiếu tướng không quân Anbe Latasơ (Albert Latache) hùn được tất cả
2.500.000 phrăng để thành lập công ti. Do vậy, từ năm 1915, quyền khai thác
mỏ đã thuộc về Đờrăngđông. Ngày 18/4/1916 ,Công ti mỏ than Đông Triều
đã ra đời và trụ sở được đặt tại Hải Phòng, trong đó quản lí 3 cơ sở khai thác
là Uông Bí (1.800 công nhân), Vàng Danh khi đó gọi là Clotilde (Clôtinđơ,
8.700 công nhân) và cảng Điền Công.
Theo thống kê đề ngày 23/8/1925 của Công ti Mỏ than Đông Triều do
Đuycơrơ (Ducreux) kí, tại Mỏ Vàng Danh (Clotilde) từ năm 1918 đến
1/8/1925, thực dân Pháp đã khai thác 263.200 tấn, cụ thể như sau:
Đơn vị tính: tấn
1918 1919 1920 1921 1922 1923 1924 Tháng
7/1925
432 5.144 14.247 24.857 27.649 41.065 83.211 66.295
Việc khai thác than ở Vàng Danh hoàn toàn theo phương pháp thủ công.
Năm 1925, cảng Điền Công, Nhà máy điện 500KW, Trạm cơ khí Vàng Danh,
đường xe lửa nội bộ có 2 đầu tầu kéo lần lượt hoàn thành.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
Trong những năm 1926 - 1930, để phục vụ cho công cuộc khai thác than,
thực dân Pháp đã xây dựng xong Nhà máy sàng Vàng Danh, Nhà máy cơ khí
Uông Bí, Nhà máy điện 5000KW, đường xe lửa Vàng Danh - Điền Công và
bắt tay vào việc mở rộng Nhà máy cơ khí Uông Bí, xây dựng Nhà máy sửa
chữa đầu tầu, Nhà máy sửa chữa và đóng xe Barchice, Nhà máy đóng và sửa
chữa toa xe, hệ thống bể than bùn, cầu Uông Bí…
Đến năm 1931, sản lượng khai thác than ở khu vực Mỏ đạt 161.000 tấn.
Để tăng hơn nữa khối lượng khai thác, chủ Mỏ cho khôi phục lại phương
pháp bóc nóc các tầng than (dùng phần đất đá phá hoả của tầng lớp trên lấp
tầng dưới đã khai thác xong) để tránh rủi ro cho người đào lò, tiết kiệm vật
liệu. Nhờ cách làm này mà năng suất khai thác đã tăng lên đáng kể. Số vốn
của Công ti than Đông Triều tính đến ngày 1- 3- 1933, tăng đến 28.000.000
phrăng. Mặt khác, số kĩ sư, kĩ thuật viên và công nhân cũng tăng lên ở Vàng
Danh - Uông Bí. Ngoài đường xe lửa được mở rộng, thường xuyên có 44 đầu
máy hoạt động, chủ Mỏ còn đầu tư xây dựng Nhà máy đúc gang, Xưởng sửa
chữa xà lan với năng lực sửa chữa hằng năm là 30 xà lan và 4 tầu kéo. Trong
năm 1941 - 1942 lại cho xây dựng thêm Nhà máy đất đèn Vàng Danh, Nhà
máy giấy Uông Bí và mở thêm tuyến đường sắt sang tả ngạn sông Uông Bí.
Sự đầu tư vốn lớn đã mang lại cho chủ Mỏ kết quả là sản lượng khai thác than
ở Uông Bí - Vàng Danh từ năm 1937 đến 1942 một khối lượng than đáng kể,
được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây:
Đơn vị tính: tấn
1937 1938 1939 1940 1941 1942
482.600 458.300 562.600 484.800 383.580 144.200
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
Nhìn chung, sản lượng khai thác than hằng năm của Mỏ Vàng Danh -
Uông Bí là khá cao, chiếm 20% sản lượng khai thác than trên toàn Đông
Dương. Giai đoạn thịnh vượng nhất của Công ti than Đông Triều là trong
khoảng 15 năm, kể từ năm 1925 đến năm 1940, sau khi hoàn thành việc cơ
giới hoá, dây chuyền sản xuất đi vào ổn định và hoàn chỉnh. Công nhân được
hai mỏ thu