Mục tiêu của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là đào tạo con người
mới, phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước
cũng như phù hợp với sự phát triển của thời đại. Mục tiêu của giáo dục phổ thông
nước ta đã được cụ thể hoá trong luật giáo dục năm 2005 như sau:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào công cuộc lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[21; 21].
ở cấp học phổ thông, môn GDCD là một trong những môn học cơ bản góp
phần tạo nên nội dung hạy học, giáo dục toàn diện nhân cách học sinh. Nhiệm vụ
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và pháp luật cho học sinh được thực hiện ở tất
cả các môn học và được thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Nhưng
chỉ có môn GDCD mới có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức đó theo
một hệ thống xác định và toàn diện.
119 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3757 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn giáo dục công dân của học sinh ở THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LUẬN VĂN:
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD
của học sinh ở THPT
2
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là đào tạo con người
mới, phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước
cũng như phù hợp với sự phát triển của thời đại. Mục tiêu của giáo dục phổ thông
nước ta đã được cụ thể hoá trong luật giáo dục năm 2005 như sau:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào công cuộc lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[21; 21].
ở cấp học phổ thông, môn GDCD là một trong những môn học cơ bản góp
phần tạo nên nội dung hạy học, giáo dục toàn diện nhân cách học sinh. Nhiệm vụ
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và pháp luật cho học sinh được thực hiện ở tất
cả các môn học và được thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Nhưng
chỉ có môn GDCD mới có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức đó theo
một hệ thống xác định và toàn diện.
Song thực tế, nhiều nhà trường của chúng ta hiện nay xem môn học này như
một môn "phụ". Việc đánh giá học lực, ý thức, thái độ học tập của các em cũng chủ
yếu dựa trên kết quả của các môn tự nhiên, các môn chuyên, môn "chính" như văn,
toán, ngoại ngữ... Vì sự coi nhẹ đó mà chất lượng học môn GDCD ở nhiều trường
không cao. Điều đó không chỉ thể hiện ở điểm số trong sổ điểm mà cả trong suy
nghĩ, tình cảm và hành động của các em học sinh. Có lẽ đây cũng là một trong
những nguyên nhân góp phần vào sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận không
nhỏ thanh niên học sinh hiện nay?
3
Thực trạng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân như: nội dung chương trình
GDCD ở phổ thông còn thiếu tính thời sự, phương pháp dạy học chưa phù hợp,
phương tiện dạy học quá sơ sài, nghèo nàn không gây được hứng thú học tập cho
học sinh... Và một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng trên đó là
cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với bộ môn GDCD ở
THPT hiện nay.
Trong khi đó, giáo dục phổ thông đang yêu cầu đổi mới theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá và đa dạng hóa. Sự đổi mới này đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng
bộ trên tất cả các khâu của quá trình đào tạo từ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá, cơ sở vật chất…
Để đánh giá kết quả học tập của học sinh có thể sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau như quan sát, vấn đáp, trắc nghiệm (tự luận, khách quan). Mỗi phương
pháp đều có ưu điểm và hạn chế của nó. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể của từng phần,
từng bài học mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
Việc kiểm tra hiện nay chủ yếu là tự luận rất đơn điệu, vì tiêu chí đánh giá
chủ yếu là dựa trên khả năng ghi nhớ. Việc kiểm tra, đánh giá như vậy không phản
ánh được thực chất năng lực học tập của học sinh và không tạo được hứng thú học
tập cho học sinh.
Qua quá trình tìm hiểu vấn đề trên, tôi thấy có rất nhiều công trình nghiên
cứu về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở nhiều cấp học, ở nhiều
môn, nhưng đi sâu vào nghiên cứu việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở bộ môn GDCD bậc THPT thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì vậy,
chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập môn GDCD của học sinh ở THPT".
2. Mục đích nghiên cứu
4
Trên cơ sở tìm hiểu về lí luận và thực tiễn vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn GDCD, đề tài nhằm đề xuất một số biện pháp tác động tới nội dung,
phương pháp, phương tiện kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học bộ môn này ở trường THPT Thái Phiên
thành phố Hải Phòng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD của học sinh trường
THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
GDCD của học sinh ở trường THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Vấn đề kiểm tra,đánh giá kết quả học tập môn GDCD có vai trò quan trọng
góp phần quyết định chất lượng dạy - học của bộ môn này ở THPT. Nếu vấn đề này
được đổi mới với hệ thống các phương pháp, hình thức, phương tiện kiểm tra, đánh
phù hợp nó sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu cho các nhà quản lí nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường, nâng cao tinh thần chủ động, sáng tạo
của giáo viên, tính tích cực học tập, rèn luyện của học sinh ở THPT Thái Phiên nói
riêng và các trường THPT nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề kiểm tra, đánh giá nói chung và các
biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở
THPT nói riêng.
5.2. Tìm hiểu thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
GDCD
của học sinh ở trường THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng và nguyên nhân của
thực trạng đó.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập môn GDCD ở THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
6. Giới hạn đề tài
Nghiên cứu những biện pháp tác động đến quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn GDCD của học sinh ở trường THPT thuộc thành phố Hải Phòng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan tới vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Lập hai loại phiếu điều: Một mẫu dành cho giáo viên và một mẫu dành cho
học sinh. Trong đó mẫu dành cho giáo viên là 25 phiếu, mẫu dành cho học sinh là
200 phiếu. Địa bàn điều tra là trường THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
6
7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát các buổi kiểm tra (cả các giờ kiểm tra bài cũ) môn GDCD ở trường
THPT Thái Phiên và dự các giờ ngoại khoá ở các lớp. Nội dung quan sát tập trung
vào cách thức ra đề, tổ chức kiểm tra, chấm bài, sử dụng công cụ, phương tiện trong
kiểm tra.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Hỏi ý kiến các nhà khoa học giáo dục về cách thức kiểm tra, đánh giá môn
học như thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
7.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Để tính toán, so sánh số liệu trong quá trình nghiên cứu.
7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tổng kết kinh nghiệm công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở một số trường tiên tiến.
8. cấu trúc luận văn
Gồm 3 phần
Phần một: Mở đầu
Phần hai: 3 Chương
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh THPT.
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
GDCD của học sinh THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
7
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn GDCD của học sinh THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
Phần ba: Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
8
Chương 1
Cơ sở lí luận về vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh Trung học phổ thông
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mọi hoạt động giáo dục đều bắt đầu từ việc xác định mục tiêu và kết thúc
bằng đánh giá. Đánh giá có liên quan chặt chẽ với kiểm tra, dựa vào kết quả của
kiểm tra và là kết quả của kiểm tra. Do đó kiểm tra, đánh giá thường đi liền với
nhau, kiểm tra là để đánh giá và đánh giá phải dựa vào kiểm tra, là mục đích của
kiểm tra [18; 56].
Cùng với sự ra đời của lí luận dạy học, lí luận kiểm tra, đánh giá là một phạm trù
được các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn về giáo dục rất quan tâm vì nó có
chức năng quan trọng trong hoạt động giáo dục.
1.1.1. Trên thế giới
Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa (thế kỷ XV - XVIII) lần đầu tiên trong lịch sử
giáo dục thế giới, nhà giáo dục Tiệp Khắc J.A.Comensky đã đặt nền móng cho lý
luận dạy học ở nhà trường và xây dựng thành một hệ thống vấn đề trong tác phẩm
"Lý luận dạy học vĩ đại", trong đó có nêu ý nghĩa, vai trò của kiểm tra, đánh giá quá
trình lĩnh hội tri thức của học sinh, ông lưu ý việc kiểm tra, đánh giá phải căn cứ
vào mục tiêu học tập và hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kiến thức của bản
thân.
Về sau các nhà nghiên cứu lý luận dạy học đã phân tích và phát triển lý luận
kiểm tra, đánh giá ở các góc độ: vai trò, ý nghĩa, mục tiêu, nội dung, nguyên tắc và
phương pháp nhằm đảm bảo tính khách quan của việc kiểm tra, đánh giá. Chẳng
hạn nhà giáo dục V.M. Palonsky đòi hỏi: "Đánh giá kiến thức phải thực hiện một
9
quá trình, quá trình đó bao gồm một số yếu tố như: nhận thức đúng mục đích kiểm
tra và đánh giá xuất phát từ mục đích dạy học, xác định đúng các bậc thang đánh giá
kết quả nắm tri thức của học sinh làm cơ sở cho việc đánh giá khách quan và xác
định các hình thức phù hợp".
ở Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu trước đây đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá, song trên thực tế các công trình nghiên cứu chủ
yếu bàn về kiểm tra, đánh giá kiến thức học sinh thông qua các hình thức trắc
nghiệm truyền thống như kiểm tra vấn đáp hoặc bài viết (trắc nghiệm tự luận) chứ
chưa quan tâm đến việc kiểm tra, đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
Từ thế kỷ XVIII việc nghiên cứu lý thuyết phương pháp trắc nghiệm khách
quan đã được bắt đầu và đến đầu thế kỷ XIX đã được triển khai rộng rãi ở các nước
kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, đặc biệt ở Mỹ ngày nay đã đạt được thành
tựu rất cao về công nghệ trắc nghiệm [18; 56].
Vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập được các tác giả nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các tác giả đều nhấn mạnh ý nghĩa và tầm
quan trọng của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Từng bước xây dựng, hoàn thiện
cơ sở lí thuyết, cơ sở thực tiễn và quy trình cho kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
1.1.2. ở Việt Nam
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá tri thức học sinh
của một số nước trên thế giới, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu và
nhiều bài viết của các tác giả tiêu biểu được đăng tải trên các tạp trí chuyên ngành,
các kỷ yếu khoa học trong các cuộc hội thảo cấp quốc gia bàn về kiểm tra, đánh giá
chất lượng học tập của học sinh.
Các tác giả Lê Khánh Bằng [1], Hà Thị Đức [6], Trần Bá Hoành [12], Đặng
Vũ Hoạt [8]... với các bài viết xoay quanh thực trạng và giải pháp kiểm tra, đánh giá
10
trong giáo dục của nước ta trong vài thập kỷ gần đây như: "Một số vấn đề kiểm tra,
đánh giá tri thức của học sinh"; "Đánh giá trong giáo dục"; "Kiểm tra, đánh giá tri
thức của học sinh trong lịch sử giáo dục và nhà trường"; "Cơ sở lí luận của việc
đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông". Trong đó tác giả Đặng Vũ
Hoạt với bài viết của mình đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tra,
đánh giá tri thức kĩ năng, kĩ xảo của học sinh. Với tư cách là người nghiên cứu sâu
về lí luận dạy học, tác giả đã trình bày những vấn đề về vị trí, chức năng và các
quan điểm kiểm tra, đánh giá tri thức của học sinh dưới góc độ lý luận dạy học hiện
nay. Theo tác giả, việc kiểm tra, đánh giá tri thức là một khâu không thể tách rời
của quá trình dạy học. Khi tiến hành kiểm tra, đánh giá cần thực hiện tốt chức năng
phát hiện- điều chỉnh, chức năng củng cố- phát triển, chức năng giáo dục. Để thực
hiện tốt chức năng đó, việc kiểm tra, đánh giá cần tuân theo những nguyên tắc sau:
Đảm bảo tính thường xuyên, tính hệ thống, đảm bảo tính toàn diện, tính phát triển
và đặc biệt là đảm bảo tính khách quan. Tác giả cho rằng đảm bảo tính khách quan
là quan trọng nhất. Nó chẳng những giúp cho việc kiểm tra, đánh giá tri thức mang
lại hiệu quả cao mà còn góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của
học sinh.
Các tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt [9], Bùi Tường, Hà Thị Đức [10],
Phó Đức Hoà [12], Trần Thị Tuyết Oanh [22]... đi sâu vào nghiên cứu một cách có
hệ thống những cơ sở lý luận chung của vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
Đây là những công trình nghiên cứu đã chính thức được sử dụng làm giáo trình
giảng dạy trong các trường đại học sư phạm.
Mặc dù vấn đề kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học đã được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học với các khía cạnh khác nhau. Nghiên cứu về vấn đề
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thì từ trước tới nay đã có rất nhiều
tác giả tham gia, ở các cấp độ như luận văn thạc sỹ hay luận án tiến sỹ đều có cả.
Nhìn chung các quan điểm về đánh giá kết quả học tập của học sinh trong nhà trường
11
đều cho thấy: việc đánh giá kết quả học tập của học sinh phải theo một qui trình hợp lí
thì mới đạt được tính chính xác, khách quan.
Song trong quá trình tìm hiểu vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh, chúng tôi thấy chưa có đề tài nào đi vào nghiên cứu kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của bộ môn GDCD ở THPT. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề:
"Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn giáo
dục công dân ở trường Trung học phổ thông" làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm biện pháp
Biện pháp là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong khoa học giáo dục. Biện
pháp là cách làm, cách hành động cụ thể để đi đến một mục đích nhất định. Biện
pháp xuất phát từ những giải pháp và sử dụng các phương pháp cụ thể [26].
1.2.2. Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả (theo từ điển tiếng Việt) là kết quả như yêu cầu của việc làm, mang
lại hiệu quả cao tức là kết quả của quá trình hoạt động đó đạt được ở mức bằng hoặc
cao hơn mục tiêu đã đề ra trong khi mức huy động nguồn lực cho hoạt động đó là
thấp nhất.
Một số nhà khoa học đã luận giải về nội hàm của khái niệm hiệu quả để vận
dụng vào việc nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể. Theo tác giả Lê Đức Phúc "Hiệu
quả là khái niệm nói lên ảnh hưởng, tác động, hiệu lực hay sự phát huy tác dụng của
một hay nhiều nhân tố xuất hiện trước nó" [24]. Hay tác giả Jean Valerien "Hiệu
quả quản lí giáo dục được hiểu là mức độ đạt được và phát huy những mục tiêu giáo
dục và mục tiêu thao tác quản lí giáo dục đã đề ra trong phạm vi nguồn lực của
mình".
12
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về hiệu quả, tuỳ theo từng lĩnh vực
và góc độ tiếp cận mà người ta đưa ra khái niệm khác nhau về hiệu quả. Theo chúng
tôi hiệu quả là mức độ đạt kết quả của hoạt động so với mục đích dự kiến và cách
thức con đường hoạt động tối ưu để đạt kết quả đó và tiếp cận hiệu quả kiểm tra,
đánh giá ở góc độ này.
1.2.3. Khái niệm kiểm tra
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì kiểm tra được định nghĩa
như sau: "Kiểm tra là quá trình sử dụng các công cụ để xem xét sự phù hợp giữa sản
phẩm và các tiêu chí đã đề ra về chất lượng hoặc số lượng của sản phẩm mà không
quan tâm đến quyết định đề ra tiếp theo".
Kết quả của kiểm tra không cho ta giá trị về mặt giải pháp nhưng nó lại có ý
nghĩa đối với đánh giá bởi vì kết quả của kiểm tra là cơ sở để đánh giá. Quá trình
đánh giá hàm chứa trong đó cả quy trình kiểm tra [18].
Kiểm tra kết quả học tập của học sinh là quá trình giáo viên thu thập thông
tin về kết quả học tập của học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát
được quá trình dạy học, phân loại và giúp đỡ học sinh. Những thông tin thu thập
được so sánh với tiêu chuẩn nhất định để làm công tác đánh giá [22; 277].
1.2.4. Khái niệm đánh giá
Về vấn đề đánh giá có rất nhiều tài liệu nghiên cứu và đưa ra nhiều định
nghĩa và quan niệm khác nhau.
Iean-Marie phát biểu rằng: "Đánh giá có ý nghĩa là thu thập một tập hợp
thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy để xem xét mức độ phù hợp giữa
tập hợp thông tin này với các mục tiêu định ra ban đầu, nhằm đưa ra một quyết
định" [4].
13
Theo Ralph Tyler, nhà giáo dục và tâm lí học nổi tiếng của Mỹ đã định nghĩa
"Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hịên các mục tiêu
trong quá trình dạy học" [4].
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim thì “ Đánh giá là quá trình hình thành những
nhận định, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu
được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết
định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công
việc”.
Ngoài ra còn rất nhiều các định nghĩa khác nữa, nhưng các định nghĩa này
đều thống nhất rằng: Đánh giá là một quá trình được tiến hành có hệ thống để xác
định mức độ đạt được của học sinh về mục tiêu đào tạo. Nó có thể bao gồm những
sự mô tả, liệt kê về mặt định tính hay định lượng những hành vi (kiến thức, kĩ năng,
thái độ) của người học ở thời điểm hiện tại đang xét đối chiếu với những tiêu chí
của mục đích dự kiến mong muốn, nhằm có quyết định thích hợp để nâng cao chất
lượng và hiệu quả của việc dạy và học.
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm tra
là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra [22; 278]. Như vậy, kiểm tra và
đánh giá là hai công việc có thứ tự và đan xen nhằm miêu tả và tập hợp những bằng
chứng về kết quả của quá trình giáo dục để đối chiếu với mục tiêu. Trong thực tế, có
thể tiến hành thu thập các thông tin nhưng không đánh giá. Nhưng để đánh giá được
phải tiến hành kiểm tra, thông qua kiểm tra mới có thể đánh giá và đánh giá chính là
kết quả của kiểm tra. Kiểm tra luôn gắn liền với đánh giá, chúng có mối quan hệ
biện chứng với nhau.
Đánh giá trong giáo dục là gì? Đánh giá trong giáo dục là một quá trình
hoạt động được tiến hành có hệ thống nhằm xác định mức độ đạt được của đối
tượng giáo dục về mục tiêu đã định; nó bao gồm sự mô tả định tính và định lượng kết
quả đạt được thông qua những nhận xét, so sánh với những mục tiêu [18].
14
Trong giáo dục và đào tạo thường áp dụng các loại hình đánh giá cơ bản,
tương ứng với chúng có các phương pháp và chuẩn đánh giá (chỉ số đo) nhất định:
Các loại hình đánh giá cơ bản thông dụng:
* Đánh giá quá trình (sự diễn biến).
* Đánh giá đầu vào, đầu ra.
* Đánh giá kết quả (sản phẩm).
Đánh giá nhà trường theo các chỉ số đo:
(1) Quá trình sư phạm tối ưu, tạo cơ sở cho sự phát triển nhân cách người
học (thể chất, trí tuệ, lối sống tự lập, có văn hoá, có đạo đức). Theo yêu cầu của bậc
học, độ tuổi, thời đại, trong mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra (theo nghĩa rộng)
trên cơ sở huy động và tận dụng mọi khả năng có thể có.
(2) Hiệu quả ngoài:
- Đối với cộng đồng (dân trí, nhân lực, nhân tài, góp phần phát triển cộng
đồng).
- Đối với địa phương (vai trò hạt nhân, kinh nghiệm tiên tiến, trung tâm khoa học kỹ
thuật…).
- Đối với ngành (chứng minh quan điểm, định hướng giáo dục đảm bảo liên tục phát
triển).
Mục đích đánh giá: Đánh giá không có mục đích tự thân. Nó phục vụ cho
nhiều mục đích khác nhau: Đánh giá để chứng nhận năng lực, đánh giá để hướng
dẫn, điều chỉnh, đánh giá để thúc đẩy, kích thích [18].
15
Đánh giá không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để đi đến mục đích.
Mục đích của đánh giá là để có những quyết định mới đúng đắn và hiệu quả hơn.
Mục đích của đánh giá cần đảm bảo ba yêu cầu cơ bản sau [18]
*Tính giá trị: Đánh giá phải đúng mục tiêu và nội dung, tính giá trị về nội
dung là ưu tiên hàng đầu của mọi cách đánh giá, tức là sự đo lường một mẫu chọn
đại diện bao quát được trong phạm vi rộng các kiến thức cần đo theo mục tiêu học
tập (về kiến thức, kĩ năng, thái độ).
*Tính tin cậy: Mọi cách đánh giá học tập là sự đo lường tính hằng định và
chính xác của kết quả kiểm tra, đánh giá, kỹ thuật soạn thảo và chất