Tiền công, tiền lương là một phạm trù kinh tế, là yếu tố hàng đầu của chính sách xã hội vì nó không chỉ liên quan đến chi phí doanh nghiệp mà còn là công cụ để ổn định trật tự xã hội. Do vậy, hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương là vấn đề quan trọng của doanh nghiệp vì nó nhằm mục đích kích thích người lao động phát huy tinh thần sáng tạo, đồng thời gắn liền lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. Đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp ổn định sản xuất và có điều kiện phát triển. Ngay trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII cũng xác định rõ "việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi bảo đảm yêu cầu tái sản xuất sức lao động khắc phục tính bình quân, tiền lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh tế".
Để hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương thì vấn đề đặt ra là áp dụng hình thức trả lương nào, cách phân phối tiền lương ra sao cho phù hợp với tính chất, đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để có thể phát huy tối đa tính kích thích của tiền lương đối với người lao động, đảm bảo hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa xã hội - tổ chức - người lao động.
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương ở công ty 20 Tổng cục hậu cần - Bộ Quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tiền công, tiền lương là một phạm trù kinh tế, là yếu tố hàng đầu của chính sách xã hội vì nó không chỉ liên quan đến chi phí doanh nghiệp mà còn là công cụ để ổn định trật tự xã hội. Do vậy, hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương là vấn đề quan trọng của doanh nghiệp vì nó nhằm mục đích kích thích người lao động phát huy tinh thần sáng tạo, đồng thời gắn liền lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. Đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp ổn định sản xuất và có điều kiện phát triển. Ngay trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII cũng xác định rõ "việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi bảo đảm yêu cầu tái sản xuất sức lao động khắc phục tính bình quân, tiền lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh tế".
Để hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương thì vấn đề đặt ra là áp dụng hình thức trả lương nào, cách phân phối tiền lương ra sao cho phù hợp với tính chất, đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để có thể phát huy tối đa tính kích thích của tiền lương đối với người lao động, đảm bảo hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa xã hội - tổ chức - người lao động.
Nhận thức được vai trò của tiền công, tiền lương nên sau quá trình thực tập tại công ty, tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương ở công ty 20 - Tổng cục Hậu cần - Bộ quốc phòng".
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
I. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG.
1. Quan điểm về tiền lương
Thù lao lao động là tất cả các khoản mà người lao động nhận đựơc thông qua mối quan hệ thuê mướn giữa họ với tổ chức.
Cơ cấu thù lao lao động gồm 3 thành phần cơ bản:
- Thù lao cơ bản:
Thù lao cơ bản là phần thù lao cố định mà người lao động nhận được một cách thường kỳ dưới dạng tiền lương (theo tuần, theo tháng) hay là tiền công theo giờ. Thù lao cơ bản được trả dựa trên cơ sở của loại công việc cụ thể, mức độ thực hiện công việc, trình độ và thâm niên của người lao động .
Tiền công là số tiền trả cho người lao động tuỳ thuộc vào số lượng thời gian làm việc thực tế (giờ, ngày), hay số lượng sản phẩm được sản xuất ra, hay tuỳ thuộc vào khối lượng công việc đã hoàn thành. Tiền công thường được trả cho công nhân sản xuất, các nhân viên bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhân viên văn phòng.
Tiền lương là số tiền trả cho người lao động một cách cố định và thường xuyên theo một đơn vị thời gian (tuần, tháng, năm). Tiền lương thường được trả cho các cán bộ quản lý và các nhân viên chuyên môn, kỹ thuật.
Tuy vậy, trong thực tế hai thuật ngữ này thường được dùng lấn lên để chỉ phần thù lao cơ bản, cố định mà người lao động được nhận trong tổ chức.
- Các khuyến khích:
Các khuyến khích: là khoản thù lao ngoài tiền công hay tiền lương để trả cho người lao động thực hiện tốt công việc loại thù lao này gồm: tiền hoa hồng, các loại tiền thưởng, phân chia năng suất, phân chia lợi nhuận.
- Các phúc lợi:
Các phúc lợi là phần thù lao gián tiếp được trả dưới dạng các hỗ trợ cuộc sống của người lao động như: bảo hiểm sức khoẻ; bảo hiểm xã hội; tiền lương hưu; tiền trả cho những ngày nghỉ (nghỉ lễ, nghỉ phép); các chương trình giải trí, nghỉ mát, nhà ở, phương tiện đi lại và các phúc lợi khác gắn liền với các quan hệ làm việc hoặc là thành viên trong tổ chức.
Phần trên là xét thù lao lao động theo nghĩa hẹp, còn hiểu theo nghĩa rộng thì thù lao lao động còn gồm các yếu tố mang tính phi tài chính. Chính là các yếu tố thuộc nội dung công việc (mức độ hấp dẫn của công việc, mức độ thách thức của công việc, cơ hội để thăng tiến, đề bạt…) và môi trường làm việc (điều kiện làm việc thoải mái, lịch làm việc linh hoạt, chính sách hợp lý và công bằng của tổ chức, đồng nghiệp thân ái…).
Qua các thời kỳ khác nhau thì khái niệm tiền lương được hiểu cũng khác nhau. Chúng ta nên đi sâu để tìm hiểu rõ hơn.
1.1. Quan điểm cũ về tiền lương
Tiền lương được hiểu là một bộ phận thu nhập quốc dân, được phân bố cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng lao động của mỗi người.
Với quan điểm này, chế độ tiền lương mang nặng tính phân phối cấp phát: tiền lương được trả bằng tiền, bằng hiện vật hoặc dịch vụ thông qua các chế độ nhà ở, y tế, giáo dục và các khoản phúc lợi xã hội khác mà người lao động không trả hoặc trả một phần tiền không đáng kể. Đồng thời, chế độ tiền lương mang nặng tính bao cấp và bình quân nên nó không khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, tính chủ động của người lao động, xem nhẹ lợi ích cá nhân của người lao động do đó không gắn lợi ích với thành quả mà họ sáng tạo ra. Như vậy đòi hỏi phải có cách hiểu mới về tiền lương để đảm bảo sự công bằng giữa lao động và tiền lương nhằm tạo động lực cho sản xuất.
1.2. Quan điểm mới về tiền lương
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa thì tiền lương là một bộ phận quan trọng của giá trị hàng hóa, phản ánh giá cả sức lao động được thể hiện trong giá cả hàng hóa thực hiện.
Như vậy, việc trả công lao động phải được tính toán một cách chi tiết trong sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế vì nó ảnh hưởng đến chi phí, giá thành và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Muốn xác định được lượng tiền lương hợp lý cần tìm ra cơ sở để tính đúng, tính đủ giá trị của sức lao động. Người lao động sau khi bỏ ra sức lao động tạo ra sản phẩm thì được một số tiền công nhất định. Xét về hiện tượng, ta thấy sức lao động được đem trao đổi để lấy tiền lương, vậy có thể coi sức lao động là hàng hóa, một loại hàng hóa đặc biệt. Vậy có thể coi tiền lương chính là giá cả hàng hóa đặc biệt, đó chính là hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động cũng có mặt giống như mọi hàng hóa có giá trị khác. Người ta định giá ấy bằng thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra nó sức lao động gắn liền với con người nên giá trị sức lao động đo bằng giá trị tư liệu sinh hoạt đảm bảo cho cuộc sống người lao động giúp họ có thể khôi phục lại những hao phí về năng lực, thể chất tinh thần sau khi lao động, thước đo này cũng luôn thay đổi giữa các giai đoạn phát triển của lịch sử và có sự khác nhau giữa các vùng do tiêu chuẩn của đời sống con người liên quan mật thiết với thu nhập. Với thu nhập tăng lên thì tiêu chuẩn sống và nhu cầu sống cũng cao lên, lúc đó giá trị sức lao động còn đo bằng giá trị của những chi phí đào tạo con người, những chi phí cần thiết cho việc học tập, nâng cao tay nghề. Những chi phí và tư liệu sinh hoạt này không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên của con người mà còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như phong tục tập quán, trình độ văn minh xã hội.
Ở quan điểm này, tiền lương phản ánh đúng giá trị sức lao động, tiền tệ hóa tiền lương triệt để hơn, xóa bỏ tính phân phối cấp phát và trả lương bằng hiện vật, cũng khắc phục quan điểm coi nhẹ lợi ích cá nhân như trước kia, tiền lương phải được sử dụng đúng vai trò đòn bẩy kinh tế của nó, kích thích người lao động gắn bó hăng say với công việc.
Tóm lại, bản chất của tiền lương với người lao động là số tiền mà người lao động nhận được sau khi đã hoàn thành công việc phù hợp với số lượng, chất lượng lao động đã quy định trước.
Đối với doanh nghiệp thì tiền lương là một trong những yếu tố đầu vào, là chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Chức năng và vai trò của tiền lương :
a. Chức năng của tiền lương
- Bảo đảm đủ chi phí để tái sản xuất sức lao động
- Bảo đảm vai trò kích thích lao động của tiền lương
- Bảo đảm vai trò điều phối lao động của tiền lương
b. Vai trò của tiền lương
- Về kinh tế: Tiền lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển kinh tế gia đình, góp phần làm giàu đất nước.
- Về chính trị xã hội: Tiền lương không chỉ ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, đến tinh thần của người lao động mà còn ảnh hưởng đến tổ chức, xã hội. Với mức lương thỏa mãn đúng với sự đóng góp của người lao động sẽ ảnh hưởng tích cực đến mọi mặt. Ngược lại nếu tiền lương không phù hợp, người lao động sẽ không thiết tha với công việc và với doanh nghiệp làm cho năng suất lao động giảm, tinh thần chán nản, giảm động lực lao động gây nhiều bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động.
- Xét ở tầm vĩ mô: tiền lương phản ánh về mặt phân phối của quan hệ sản xuất hàng hóa, do vậy ở mỗi chế độ xã hội khác nhau có sự phân phối khác nhau. Quy luật chung nhất để thúc đẩy mọi nền sản xuất phát triển là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chính chế độ tiền lương góp phần làm phù hợp quy luật này và tạo động lực kích thích sản xuất.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương
a. Yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
- Thị trường lao động
- Sự khác biệt về tiền lương theo vùng địa lý mà tổ chức doanh nghiệp đang cư trú.
- Các mong đợi của xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán.
- Các tổ chức công đoàn.
- Luật pháp và các quy định của Chính phủ.
- Tình trạng của nền kinh tế.
b. Yếu tố thuộc về tổ chức
- Ngành, lĩnh vực sản xuất
- Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Quy mô, cơ cấu, trang thiết bị của doanh nghiệp.
c. Yếu tố thuộc về công việc
- Điều kiện lao động.
- Đòi hỏi về trách nhiệm của công việc.
- Mức độ phức tạp, yêu cầu trình độ, khả năng… của công việc.
d. Yếu tố thuộc về cá nhân người lao động
- Trình độ, thâm niên, kinh nghiệm của người lao động
- Mức độ hoàn thành công việc.
- Sự cố gắng, cống hiến, tiềm năng của người lao động.
2. Quan điểm về tổ chức quản lý tiền lương
Quy định ở nước ta hiện nay với vấn đề tổ chức, quản lý tiền lương là Nhà nước không trực tiếp quản lý tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quyền tự xây dựng quỹ lương nhưng phải do cấp trên quy định đơn giá lương và xét duyệt quy chế tiền lương ở doanh nghiệp. Thêm vào đó, doanh nghiệp có quyền tự lựa chọn các hình thức trả lương và hình thức tiền lương trong doanh nghiệp trên cơ sở quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, kích thích không ngừng tăng năng suất lao động. Mức thu nhập của mỗi người trong doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả giữa sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp và phụ thuộc vào năng suất, chất lượng hiệu quả công tác của từng người. Giờ đây, Nhà nước không can thiệp vào công việc kỹ lưỡng của doanh nghiệp, không quản lý kế hoạch hóa tiền lương như trước đây mà chỉ thực hiện việc giám sát công việc sử dụng quỹ lương. Nhà nước cũng không cho phép các doanh nghiệp trả lương cho người lao động thấp hơn mức tối thiểu, nhưng cũng có chính sách điều tiết với những người có thu nhập cao như chính sách thuế thu thập. Điều quan trọng là doanh nghiệp cần quan tâm đến các quy định về lương nhằm tăng tổng quỹ lương, vừa phân phối tiền lương hợp lý cho mỗi cá nhân đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa nhịp độ tăng tiền lương với nhịp độ tăng năng suất lao động.
Từ cuối năm 1990 đến nay, quỹ lương của doanh nghiệp được xác định căn cứ vào đơn giá tiền lương như sau:
- Doanh nghiệp tự xây dựng đơn giá tiền lương trình cấp trên duyệt.
- Nếu là sản phẩm do Nhà nước quy định giá thì đơn giá tiền lương được tính bằng lượng tiền tuyệt đối trên một đơn vị sản phẩm hoặc tỷ lệ tiền lương trên tổng doanh thu.
- Quỹ tiền lương của doanh nghiệp phải đăng ký với ngân hàng.
Ngoài khoản tiền lương cơ bản, tiền thưởng cũng được sử dụng nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể là tiền thưởng do tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng năng suất lao động… việc áp dụng có hiệu quả các hình thức tiền thưởng sẽ khuyến khích người công nhân nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao.Tiền lương, tiền thưởng là một đòn bẩy kinh tế, đồng thời cũng là một bộ phận hữu cơ của hệ thống quản lý kinh tế, nó là một phần giá trị mới sáng tạo ra cũng chính là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động.
3. Nguyên tắc cơ bản của tiền lương ở doanh nghiệp
3.1. Tiền lương ngang nhau cho những lao động ngang nhau
Nguyên tắc này chỉ rõ những người có tay nghề và năng suất lao động như nhau thì phải được trả lương như nhau, không có sự phân biệt về tuổi tác, giới tính, sắc tộc, màu da việc đưa ra nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự công bằng trong việc trả lương cho người lao động; hơn nữa, cũng góp phần xóa đi sự lạm dụng những tiêu thức bất hợp lý để hạ thấp tiền lương của người lao động.
3.2. Đảm bảo tăng năng suất lao động nhanh hơn tiền lương bình quân
Một doanh nghiệp nếu tiền lương bình quân tăng nhanh hơn năng suất lao động thì doanh nghiệp sẽ không có lãi vì chi phí tiền lương cao trong khi doanh thu do tăng năng suất lao động. Vì thế, đảm bảo năng suất tăng nhanh hơn tiền lương bình quân là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quản lý tiền lương. Chính nguyên tắc này mới tạo cơ sở cho việc giảm giá thành sản phẩm, hạ giá bán và tăng tích lũy.
3.3. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm nghề khác nhau trong các đơn vị khác nhau.
Trình độ lành nghề bình quân của người lao động, điều kiện lao động và ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân là khác nhau. Điều này có ảnh hưởng tới tiền lương bình quân của người lao động. Với những nghề có tính chất phức tạp về kỹ thuật hoặc làm việc trong điều kiện độc hại, nặng nhọc, hoặc có mũi nhọn trong nền kinh tế thì mức lương trả cho những người này phải cao hơn so với các ngành khác. Tuy vậy, việc trả lương cao như thế nào để tránh sự chênh lệch giá mức góp phần vào làm giảm sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội là điều đáng quan tâm chú ý của những người lãnh đạo và các nhà quản lý. Có vấn đề đặt ra là nếu tiền lương trả đúng sức lao động sẽ khuyến khích người lao động làm việc; tuy vậy, nếu tiền lương trả cao hơn sức lao động sẽ làm giảm năng suất lao động. Vậy để giải quyết vấn đề trên thì khi trả lương cho người lao động cần thực hiện đúng các nguyên tắc của tiền lương.
4. Những yêu cầu của tổ chức quản lý tiền lương
- Đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
- Đảm bảo cách tính lương đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, bảo đảm tính công bằng, kinh tế.
- Đảm bảo năng suất lao động không ngừng tăng lên.
Có đảm bảo các yêu cầu của tổ chức quản lý tiền lương như trên mới giúp doanh nghiệp tồn tại và ngày càng phát triển. Còn đối với người lao động thì có đủ chi phí để trang trải cho cuộc sống. Đối với toàn xã hội là nguồn góp phần tạo ra sự công bằng, và đảm bảo cho sự ổn định và phồn thịnh của xã hội.
5. Vai trò ý nghĩa của việc tổ chức quản lý hợp lý tiền lương trong doanh nghiệp:
Tiền lương hay tiền công là một phạm trù kinh tế vì nó phản ánh mối quan hệ về kinh tế trong công tác trả lương, trả công cho người lao động. Tiền công phụ thuộc vào sản xuất và nó do những quan hệ về sản xuất mà trước hết là quan hệ về tư liệu sản xuất quyết định. Tiền lương là vấn đề quan trọng trong các quan hệ kinh tế, nó có quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình tái sản xuất xã hội, đặc biệt là tái sản xuất sức lao động. Đối với người lao động thì tiền lương là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao động, giúp cho họ và gia đình trang trải các chỉ tiêu, sinh hoạt dịch vụ cần thiết. Ngoài ra, tiền công, tiền lương chiếm được ảnh hưởng đến địa vị của người lao động trong gia đình, địa vị của họ trong tương quan với các bạn đồng nghiệp cũng như giá trị tương đối của họ đối với tổ chức và đối với xã hội. Chính khả năng kiếm được tiền công cao hơn sẽ tạo động lực thúc đẩy người lao động ra sức học tập để nâng cao giá trị của họ đối với tổ chức thông qua sự nâng cao trình độ và sự đóng góp cho tổ chức. Đối với doanh nghiệp, tiền công là một phần quan trọng của chi phí sản xuất. Các nhà quản lý, người sử dụng lao động dùng tiền lương để khuyến khích người lao động tăng năng suất và làm ra những sản phẩm có chất lượng cao; đây cũng là công cụ để duy trì, giữ gìn và thu hút những lao động giỏi có khả năng phù hợp với công việc của tổ chức. Tiền lương trả đúng sức lao động sẽ kích thích sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sức lao động đã trở thành hàng hóa và có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất, người lao động có quyền tự do làm chủ sức lao động của mình. Sức lao động là một yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất nên tiền công là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là giá cả của sức lao động và là một phạm trù của sản xuất cho nên yêu cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi thực hiện quá trình lao động sản xuất sức lao động còn là một yếu tố của quá trình sản xuất, cần phải phù đắp sau khi đã hao phí nên tiền công phải được thông qua quá trình phân phối. Phân phối ở đây chính là phân phối thu nhập quốc dân dựa trên hao phí lao động, hiệu quả lao động của người lao động, do đó tiền công là một phạm trù của phân phối, sức lao động cần được tái sản xuất thông qua việc tiêu dùng các tư liệu sinh hoạt, thông qua các quỹ tiêu dùng cá nhân. Do đó tiền công là một phạm trù của tiêu dùng.
Vậy tiền lương hay tiền công là một phạm trù kinh tế tổng hợp bao gồm các chức năng sau:
- Tiền công là công cụ để thực hiện chức năng phân phối thu nhập quốc dân, chức năng thanh toán giữa người sử dụng sức lao động và người lao động.
- Tiền lương nhằm tái sản xuất sức lao động thông qua việc sử dụng tiền lương trao đổi lấy các vật sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống của người lao động.
- Kích thích con người tham gia lao động bởi lẽ tiền lương là một bộ phận quan trọng về thu nhập, chi phối và quyết định mức sống của người lao động, và đó là một công cụ quan trọng trong quản lý. Người ta sử dụng nó để thúc đẩy người lao động trong công việc hăng hái lao động và sáng tạo, đây được coi như là một công cụ tạo động lực trong lao động. Như đã xét ở trên vai trò của tiền lương là rất quan trọng đối với người lao động, đối với doanh nghiệp và đối với toàn xã hội .
Tóm lại, công tác tổ chức quản lý tiền lương là một công tác quan trọng có ý nghĩa sống còn với nhiều doanh nghiệp. Việc đòi hỏi một cơ cấu tổ chức quản lý tiền lương hợp lý là vấn đề đối với các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận hay là cả với các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Vì trong doanh nghiệp, tiền lương phải đảm bảo sự công bằng và khuyến khích người lao động yêu nghề, tăng khả năng làm việc…
6. Các hình thức tiền lương
Có hai hình thức trả lương thường được áp dụng là trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm.
6.1. Trả lương theo thời gian
- Khái niệm: Trả lương theo thời gian là số tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào thời gian lao động và tiền lương trong một đơn vị thời gian.
Tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào hai nhân tố ràng buộc là mức tiền lương trong một đơn vị thời gian và thời gian làm việc.
- Các hình thức của tiền lương theo thời gian: 2 loại
+ Trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương cấp bậc cao, thấp và thời gian làm việc nhiều hay ít quyết định loại này gồm lương giờ, lương tháng, lương ngày.
+ Trả lương theo thời gian có thưởng là một sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời gian giản đơn với tiền thưởng chỉ đạt được những chỉ tiêu về số lượng, chất lượng đã quy định.
Tiền lương trả theo thời gian thường được áp dụng cho các công việc sản xuất nhưng khó định mức cụ thể, hoặc các công việc đòi hỏi chất lượng cao, các công việc mà năng suất, chất lượng phụ thuộc chủ yếu vào máy móc, thiết bị hay các hoạt động tạm thời, sản xuất thử.
Ưu điểm : của hệ thống này là dễ hiểu, dễ quản lý, tạo điều kiện cho người quản lý và công nhân có thể tính toán tiền công một cách dễ dàng. Các mức thời gian được sử dụng cũng như các ghi chép về số lượng sản phẩm sản xuất thực tế của các cá nhân chỉ là để nhằm mục đích kiểm tra, chứ không dùng để tính toán trực tiếp lượng tiền công.
Nhược điểm: chủ yếu của hình thức này là tiền công mà công nhân được không liên quan trực tiếp đến sự đóng góp lao động của họ trong một chu kỳ thời gian cụ thể. Vì thế, sự khuyến khích thực hiện công việc dựa trên những đòi hỏi tối thiểu của công việc cần phải được thực hiện bởi những biện pháp tạo động lực khác ngoài các khuyến khích tài chính trực tiếp. Các chỉ tiêu như năng suất lao động, chi phí nguyên vật liệu… khôn