Thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động hết sức quan trọng đối với
các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn mở của buôn bán và giao lưu quốc tế. Hoạt động trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau ngày càng được mở rộng, càng được đẩy
mạnh, thanh toán giữa các tổ chức với nhau diễn ra trong những điều kiện đầy rủi ro
đòi hỏi các tổ chức phải cần đến sự giúp đỡ của ngân hàng. Hoạt động thanh toán
quốc tế ra đời và phát triển như là một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển, thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Vì những đòi hỏi tất yếu đó, nâng cao chất lượng và phát
triển hoạt động thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại sẽ là điều kiện
để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, tham gia vào quá trình mở rộng và
phát triển của chiến lược quốc tế hoá kinh tế nói chung, hỗ trợ tích cực cho công tác
thanh toán trong trao đổi và buôn bán hàng hoá giữa các nước nói riêng. Đây là
bước tạo tiền đề cho quá trình gia nhập của nước ta vào các tổ chức kinh tế khu vực
và quốc tế thời gian tới như AFTA, WTO.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh toán quốc tế ở các ngân
hàng thương mại, em lựa chọn đề tài :
“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế tại
Ngân hàng Thương Mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank ).
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản của hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân
hàng thương mại.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng kỹ thương
(Techcombank).
- Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán
quốc tế tại ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank).
84 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1840 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam (techcombank ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
Thương Mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam
(Techcombank )
Mở đầu
Thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động hết sức quan trọng đối với
các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn mở của buôn bán và giao lưu quốc tế. Hoạt động trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau ngày càng được mở rộng, càng được đẩy
mạnh, thanh toán giữa các tổ chức với nhau diễn ra trong những điều kiện đầy rủi ro
đòi hỏi các tổ chức phải cần đến sự giúp đỡ của ngân hàng. Hoạt động thanh toán
quốc tế ra đời và phát triển như là một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển, thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Vì những đòi hỏi tất yếu đó, nâng cao chất lượng và phát
triển hoạt động thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại sẽ là điều kiện
để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, tham gia vào quá trình mở rộng và
phát triển của chiến lược quốc tế hoá kinh tế nói chung, hỗ trợ tích cực cho công tác
thanh toán trong trao đổi và buôn bán hàng hoá giữa các nước nói riêng. Đây là
bước tạo tiền đề cho quá trình gia nhập của nước ta vào các tổ chức kinh tế khu vực
và quốc tế thời gian tới như AFTA, WTO...
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh toán quốc tế ở các ngân
hàng thương mại, em lựa chọn đề tài :
“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế tại
Ngân hàng Thương Mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank ).
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản của hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân
hàng thương mại.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng kỹ thương
(Techcombank).
- Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán
quốc tế tại ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank).
Chương 1
một số vấn đề cơ bản của hoạt động thanh toán
quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.1.vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại ra đời tồn tại song song và gắn bó với lịch sử phát triển
nền kinh tế quốc dân. Những đóng góp của ngành ngân hàng Việt Nam cho đất
nước có tầm quan trọng đặc biệt và được mọi người thừa nhận. Trong thời đại nền
kinh tế thông tin và kinh tế tri thức đang dần chiếm ưu thế thì vai trò của ngân hàng
càng quan trọng.
Trong các định chế tài chính, ngân hàng thương mại là định chế có kỳ hạn quan
trọng nhất, điều này được chứng minh trong tính ưu việt và tầm quan trọng của
chúng.
Có thể thấy tầm quan trọng của ngân hàng thương mại thông qua các chức năng
của nó .
Chức năng tạo tiền:
Một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng là khả năng tạo tiền và huỷ
tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của
ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng có mục tiêu là kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu
cầu tín dụng của cộng đồng. Ngân hàng phải xác định một tỷ lệ phân chia vốn hợp
lý trong phạm vi khoản mục cho vay, điều này có nghĩa là vốn phải được phân chia
vào các mục tiêu tiêu dùng, đầu tư, thương mại một cách hợp lý. Sự phân chia này
phụ thuộc vào khả năng sinh lời của từng lĩnh vực và phụ thuộc mục tiêu kinh
doanh riêng của từng ngân hàng. Hoạt động tín dụng có một vai trò rất quan trọng
nó giúp điều hoà cung cầu tiền tệ trên thị trường, giúp ổn định giá cả, tạo được việc
làm cho người lao động và giúp cho các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh một
cách liên tục.
Chức năng thanh toán:
Cơ chế thanh toán hay sự vận động của vốn là môt trong những chức năng quan
trọng do ngân hàng thương mại thực hiện. Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế,
chức năng thanh toán giúp cho sự vận chuyển của đồng tiền một cách đơn giản và
nhanh gọn hơn. Trước đây ngân hàng sử dụng các phương tiện thanh toán chủ yếu
bằng phát hành séc, ngày nay khi công nghệ thông tin phát triển đã giúp cho hoạt
động thanh toán diễn ra nhanh hơn, các hình thức chuyển tiền bằng điện tử ra đời
thay thế một phần việc sử dụng séc trong thanh toán.
Dịch vụ này có vai trò rất lớn, nó tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các
khoản thanh toán mà không phải mang theo bên mình một lượng tiền lớn, nó được
xác lập dựa trên cơ sở mối quan hệ quốc tế cũng như tính thuận tiện của các phương
tiện truyền tin.
Huy động tiết kiệm.
Các ngân hàng thương mại thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả
các khu vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi cho việc
gửi tiền tiết kiệm của dân chúng. Người gửi tiết kiệm được nhận một khoản tiền
thưởng dưới danh nghĩa là lãi suất tiết kiệm trên tổng số tiền gửi tiết kiệm ở các
ngân hàng, với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản cao.
Số tiền huy động được thông qua hình thức tiết kiệm, ngân hàng dùng để đáp
ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả năng sản
xuất và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cá nhân như mua sắm hàng tiêu dùng và nhà
cửa...
Dịch vụ tài chính và tư vấn:
Dịch vụ tài chính và tư vấn được thực hiện khi ngân hàng trợ giúp các công ty
phát hành chứng khoán bằng việc đứng sau bảo lãnh cho các chứng khoán này, hoặc
khi ngân hàng đưa ra những lời khuyên gợi ý cho khách hàng về những thời điểm
thích hợp nhất để đầu tư vào chứng khoán có lãi.
Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương.
Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động nội
thương, nhưng nó có sự khác biệt đáng kể như là: các bên giao dịch thuộc các quốc
gia khác nhau, hàng hoá được trao đổi qua biên giới, đồng tiền thanh toán là đồng
ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai nước, khác nhau về mặt ngôn ngữ... Chính vì
có những sự khác biệt này, mà các hoạt động ngoại thương cần đến ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại có khả năng cung ứng ngoại tệ một cách nhanh
chóng, giúp cho các bên mua đảm bảo được việc nhận hàng, bên bán đảm bảo thu
được tiền hàng. Như vậy có thể nói, ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện rất lớn
cho hoạt động ngoại thương.
Ngoài những chức năng trên, ngân hàng còn có một số chức năng khác như:
dịch vụ uỷ thác, bảo quản an toàn vật có giá, bảo lãnh tín dụng, thương mại ...
1.1.2. Vai trò, tính tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế tại
Ngân hàng Thương mại.
a. Khái niệm:
Thanh toán quốc tế là việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan
tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác giữa các tổ chức, các
công ty và các chủ thể khác nhau của các nước.
Một cách khác thanh toán quốc tế có thể được hiểu là việc chi trả những khoản
ngoại tệ, tín dụng có liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận quy
định trong hợp đồng thương mại quốc tế.
b. Tính tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế là một trong những khâu quan trọng trong xuất nhập khẩu
hàng hoá, hay nói rộng hơn thì nó là một khâu quan trọng của hoạt động thương mại
quốc tế.
Khái niệm: Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước
thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt giữa
các quốc gia.
Ta có thể chứng minh sự hình thành hoạt động thanh toán quốc tế là tất yếu
trong quá trình trao đổi hàng hoá trên phạm vi thanh toán quốc tế qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: luồng chuyển dịch hàng, tiền, chứng từ.
Ngườ
i
Xuất
Khẩu
Ngườ
i
Nhập
Khẩu
(1
(5
(4
(3
(2
Trong đó :
(1) Người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người nhập khẩu.
(2) Người xuất khẩu tiến hành giao chứng từ cho người nhập khẩu.
(3) Giao hàng đối lưu (người nhập khẩu đồng thời là người xuất khẩu và ngược
lại).
(4) Chuyển giao nghĩa vụ, khoản nợ.
(5) Người nhập khẩu tiến hành giao tiền cho người xuất khẩu.
Sự kết hợp các luồng dịch chuyển ở sơ đồ trên tạo ra một số phương thức thanh
toán.
Khi (1) kết hợp với (2) người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người nhập
khẩu, sau đó chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu đi nhận hàng. Việc thanh
toán giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu có thể bằng cách giao trực tiếp,
nhưng trên thực tế do cách xa về mặt địa lý mà việc thanh toán trực tiếp ở đây là rất
ít. Mặt khác sau khi giao hàng và chứng từ người xuất khẩu không chắc chắn việc
thu tiền của mình nên họ phải nhờ đến bên thứ ba có thể là hệ thống ngân hàng
thương mại để đảm bảo việc thu tiền của mình. Hệ thống ngân hàng thương mại có
vai trò như thế nào còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa người nhập khẩu và xuất
khẩu. Phương thức thanh toán được hình thành ở đây có thể là nhờ thu, chuyển tiền,
L/C. Khi khách hàng áp dụng phương thức L/C thì vai trò của ngân hàng là rất lớn,
điều này sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
(1) Kết hợp với (3) đây là phương thức giao hàng đối lưu. Phương thức giao
dịch này người xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với người nhập khẩu, người bán đồng
thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi ở đây có giá trị tương đương. Đồng tiền
ở đây đóng vai trò là đồng tiền tính giá. Trong trường hợp này có thể cần đến hệ
thống ngân hàng thương mại như một nhà trung gian giúp đảm bảo thực hiện hợp
đồng bằng cách dùng thư tín thương mại đối ứng, khống chế chứng từ sở hữu hàng
hoá.
(2) Kết hợp với (4) ở đây bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho bên
thứ ba, khi này nghĩa vụ trả tiền hàng cho người xuất khẩu không còn thuộc nghĩa
vụ của người nhập khẩu. Để đảm bảo việc thanh toán tiền hàng cho người xuất
khẩu, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà hệ thống ngân hàng thương mại có tham gia
vào quy trình thanh toán hay không.
(1) Kết hợp với (5) trong phương thức giao dịch này người xuất khẩu và người
nhập khẩu gặp nhau trực tiếp để giao hàng và thanh toán tiền hàng, khi này vai trò
của hệ thống ngân hàng thương mại được thể hiện không rõ.
Như vậy có thể thấy hoạt động thanh toán quốc tế được sử dụng ở hầu hết các
phương thức giao dịch, người ta có thể áp dụng phương thức thanh toán quốc tế
trong giao dịch hay không điều này còn tùy thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên,
mức độ quen thuộc của bạn hàng và phụ thuộc vào phong tục tập quán về hoạt động
thanh toán của nước đó. Qua sự chứng minh trên ta có thể thấy sự tồn tại tất yếu
khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế trong quá trình trao đổi hàng hoá trên
phạm vi quốc tế.
Ngày nay, thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì nó giúp mở rộng khả
năng sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu
dùng so với ranh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế
độ tự cung tự cấp. Sự trao đổi hàng hoá dịch vụ thông qua mua bán là cần thiết bởi
vì với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi mở rộng của chuyên môn hoá ngày
một tăng. Một đất nước sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu của người dân
nước đó thì đòi hỏi phải có sự trao đổi buôn bán ra bên ngoài. Sự tồn tại tất yếu
khách quan của thương mại quốc tế còn có nhiều lý do khác nữa như là: Với lợi thế
tương đối, mỗi nước có những điều kiện hơn hẳn các Sự tồn tại tất yếu khách quan
của hoạt động thương mại quốc tế một lần nữa khẳng định sự tồn tại của hoạt động
thanh toán quốc tế.
c. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế trong ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng
hoá. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn phụ thuộc vào
hoạt động thanh toán. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt nam trong những
năm đổi mới đã làm cho hoạt động thanh toán quốc tế có điều kiện phát triển, sự
xoá bỏ dần các điều kiện ràng buộc như hàng rào thuế quan, tham gia vào quá trình
quốc tế hoá đời sống là một trong những yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình phát triển
của hoạt động thanh toán quốc tế.
Quá trình buôn bán trao đổi hàng hoá làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng tiền,
phát sinh nghĩa vụ thanh toán giữa các bên với nhau, đây là khâu cuối cùng của sản
xuất và lưu thông, sự kết thúc của thương vụ, các quan hệ hàng tiền trở nên gắn liền
với nhau thông qua trao đổi. Như vậy xu hướng mở rộng nền kinh tế một lần nữa đã
khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt
động thanh toán quốc tế nói riêng.
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm:
Như trên đã nêu: thanh toán quốc tế là việc chi trả những khoản ngoại
tệ, tín dụng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả
thuận, quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế.
Trong xuất nhập khẩu hàng hoá, việc thanh toán cần phải xét đến các vấn đề:
+ Tỷ giá hối đoái.
+ Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
+ Thời hạn trong thanh toán.
+ Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế.
+ Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
+ Các điều kiện đảm bảo tín dụng.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, có rất nhiều vấn đề có liên quan
đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Phương thức thanh toán là một trong những
biện pháp giúp chúng ta đảm bảo được phần nào quyền lợi của bên xuất khẩu và
nhập khẩu.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phụ thuộc vào phương thức thanh toán áp dụng
và là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế. Để hoạt động thanh
toán đạt hiệu quả cao chúng ta phải nghiên cứu kỹ phương thức thanh toán và vận
dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán
quốc tế.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thanh toán quốc tế là:
- Đối với người xuất khẩu.
+ Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ tiền hàng, thu tiền về càng nhanh càng
tốt.
+ Bảo đảm giữ vững giá trị thực tế của số thu nhập ngoại tệ khi có biến động
tiền tệ xảy ra.
+ Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, củng cố và mở rộng thị trường, phát triển thêm
thị trường mới.
- Đối với người nhập khẩu:
+ Bảo đảm chắc chắn nhập được hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng thời hạn.
+ Trong điều kiện khác không thay đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt.
+ Góp phần làm cho việc nhập khẩu của ta theo đúng nhu cầu phát triển của nền
kinh tế quốc dân một cách thuận lợi.
1.2.2. Phân loại thanh toán quốc tế.
Theo tính chất người ta chia thanh toán quốc tế ra làm hai loại:
Thanh toán mậu dịch.
Thanh toán phi mậu.
Trong đó
Thanh toán mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá,
dịch vụ thương mại kết hợp với xuất nhập khẩu dựa trên giá quốc tế. Trong thanh
toán mậu dịch các bên tham gia sẽ bị ràng buộc bởi hợp đồng kinh tế đã ký kết và
các cam kết thương mại khác. Nếu hai bên không ký hợp đồng mà chỉ có đơn đặt
hàng thì sẽ căn cứ vào đại diện các bên giao dịch.
Xuất phát từ khái niệm của thanh toán mậu dịch ta thấy rằng đây là một hoạt
động phức tạp, có nhiều bên tham gia, việc thanh toán này xuất hiện dựa trên cơ sở
buôn bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Đối với loại này nó ràng buộc trách nhiệm của các bên bởi các chứng từ mua bán,
bởi các thoả thuận mang tính chất pháp luật, nó được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống
luật khác nhau. Chính vì vậy thanh toán mậu dịch có mức độ rủi ro cao và đây là đối
tượng của hoạt động thanh toán quốc tế, là đối tượng của ngân hàng thương mại.
Thanh toán phi mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan tới
hàng hoá không có tính thương mại. Thanh toán phi mậu dịch bao gồm các chi phí
của các cơ quan ngoại giao ở các nước sở tại, chi phí vận tải, chi phí đi lại của các
đoàn khách Chính phủ của các tổ chức của các đoàn khách cá nhân.
Dựa trên khái niệm ta có thể thấy thanh toán phi mậu dịch đơn giản hơn nhiều
so với thanh toán mậu dịch, đối với ngân hàng thương mại thì thanh toán mậu dịch
là đối tượng chính.
Từ sau đại hội đảng VI- 1986, nền kinh tế đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nền kinh tế
Viêt Nam từ đó đến nay có bước phát triển không ngừng, từ một nền kinh tế nghèo
nàn lạc hậu chúng ta đã và đang xây dựng một nền kinh tế thị trường ổn định ngày
càng phát triển, người dân từ chỗ mong mỏi thoả mãn nhu cầu tối thiểu của họ hiện
nay đã quan tâm tới nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội và xa hơn nữa là nhu cầu cá
nhân. Cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, mức tăng trưởng bình
quân đầu người ngày một gia tăng, tăng trưởng GDP ngày càng cao và ổn định, năm
2000 chúng ta đã đạt tới 6,7%. Nhu cầu về sự đa dạng của hàng hoá càng cao
thương mại quốc tế càng phát triển, thanh toán quốc tế ngày càng phát huy vai trò
của mình.
1.2.3. Các phương tiện thanh toán quốc tế.
Các phương tiện lưu thông tín dụng hối phiếu, kỳ phiếu, séc... được dùng làm
phương tiện thanh toán quốc tế hình thành trên cơ sở phát triển tín dụng thương
nghiệp và tín dụng trong ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong thanh toán quốc
tế. Cùng với quá trình hình thành và phát triển tín dụng thương nghiệp và tín dụng
ngân hàng các phương tiện tín dụng đã ra đời rất lâu trong lịch sử dưới các hình
thức như giấy ghi nợ, nhận nợ ... Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, gắn liền
với sự phát triển đa dạng và quy mô ngày càng lớn của các nghiệp vụ tín dụng. Dần
dần các phương tiện lưu thông tín dụng đã trở thành vật mang hình thái tiền tệ đặc
thù.
Các phương tiện tín dụng được tạo ra chủ yếu trên cơ sở quan hệ hợp đồng
mua bán và nghiệp vụ tín dụng ngân hàng.
1.2.3.1. Hối phiếu.
a. Khái niệm:
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát
cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày
cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số
tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho mgười
khác hoặc người cầm phiếu.
Qua khái niệm trên cho thấy hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng:
Tính trừu tượng của hối phiếu:
Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức là nguyên
nhân gây ra việc lập hối phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và nội dung có liên
quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng không bị ràng buộc do
nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu. Một khi tách ra khỏi hợp đồng đến tay người thứ
ba thì hồi phiếu trở thành một trái vụ độc lập, chứ không phải trái vụ sinh ra từ hợp
đồng. Hay nói một cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng.
Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu:
Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ phiếu.
Người trả tiền không thể viện những lý do riêng của mình với người ký phát phiếu,
người ký hậu mà từ chối trả tiền, trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo
luật chi phối nó. Ví dụ một người đặt hàng máy móc sau khi ký hợp đồng đã chấp
nhận trả tiền vào tờ phiếu do người cung cấp hàng gửi đến, hối phiếu đó đã được
chuyển sang tay người thứ ba thì người đặt hàng bắt buộc phải trả tiền cho người
cầm phiếu này ngay cả trong trường hợp người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng
không giao hàng cho người mua.
Tính lưu thông của hối phiếu.
Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn cuả
nó. Sở dĩ có được đặc điểm này, bởi vì hối phiếu là lệnh đòi tiền của người này đối
với người khác, hối phiếu có một trị giá tiền nhất định, có một thời hạn nhất định,
thời hạn này thường là ngắn hạn và được người trả tiền chấp nhận. Tóm lại nhờ vào
tính trừu tượng và tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu, mà hối phiếu có được tính
lưu thông.
b. Các loại hối phiếu.
Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiều làm ba loại:
+ Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do
người cầm phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
+ Hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất định, thường từ