Luận văn Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội đến năm 2005

Trong bất kì chế độ xã hội nào dù là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa thì giáo dục luôn là hoạt động quan trọng đối với sự phát triển kinh-tế xã hội của một quốc gia. Bởi lẽ: giáo dục là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách và năng cao ý thức của mỗi con người trong xã hội. Cùng với truyền thống dân tộc, giáo dục thúc đẩy lòng nhiệt huyết của mỗi thế hệ đối với quốc gia dân tộc. Con người là vốn quí, là tài sản vô giá của mỗi quốc gia và tri thức khoa học là “ sản phẩm đặc biệt” của quá trình học hỏi và trau dồi kiến thức trên ghế nhà trường. Trong văn kiện hội nghị lần thứ II đã nêu: “lấy phát triển giáo dục làm yếu tố cơ bản- là khâu đột phá.”Và đúng vậy, xã hội phát triển đồng nghĩa với tri thức con người được nâng lên một bước. Trong số những biện pháp phát triển toàn diện một quốc gia thì ngân sách nhà nước(NSNN) được coi là công cụ đặc biệt giúp nhà nước thực hiện các chức năng của giáo dục thông qua việc Thu- Chi Ngân sách. Và một trong những khoản chi nói trên, chi cho giáo dục nói riêng trên địa bàn thủ đô đã đóng góp một phần lớn vào những thành công trên địa bàn thủ đô. Hơn thế nữa, đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: "phải thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu”. “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển ", một lần nữa Dự thảo Đại hội IX vừa qua Đảng ta đã khẳng địmh: " từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.”. Điều này chứng tỏ Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước so với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trước yêu cầu và tính bức xúc đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội đến năm 2005”. Trong phạm vi bài viết tôi chỉ xin phép nội dung việc quản lí chi NSNN trong ngành giáo dục phổ thông trên địa bàn thủ đô Hà nội. Nội dung đề tài gồm ba phần ngoài lời mở đầu và phần kết luận. Phần thứ nhất: Hoạt động giáo dục và vai trò cuẩ chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Phần thứ hai: Thực trạng về công tác quản lí chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội những năm qua. Phần thứ ba: Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thủ đô những năm tơí.

doc69 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2138 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong bất kì chế độ xã hội nào dù là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa thì giáo dục luôn là hoạt động quan trọng đối với sự phát triển kinh-tế xã hội của một quốc gia. Bởi lẽ: giáo dục là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách và năng cao ý thức của mỗi con người trong xã hội. Cùng với truyền thống dân tộc, giáo dục thúc đẩy lòng nhiệt huyết của mỗi thế hệ đối với quốc gia dân tộc. Con người là vốn quí, là tài sản vô giá của mỗi quốc gia và tri thức khoa học là “ sản phẩm đặc biệt” của quá trình học hỏi và trau dồi kiến thức trên ghế nhà trường. Trong văn kiện hội nghị lần thứ II đã nêu: “lấy phát triển giáo dục làm yếu tố cơ bản- là khâu đột phá...”Và đúng vậy, xã hội phát triển đồng nghĩa với tri thức con người được nâng lên một bước. Trong số những biện pháp phát triển toàn diện một quốc gia thì ngân sách nhà nước(NSNN) được coi là công cụ đặc biệt giúp nhà nước thực hiện các chức năng của giáo dục thông qua việc Thu- Chi Ngân sách. Và một trong những khoản chi nói trên, chi cho giáo dục nói riêng trên địa bàn thủ đô đã đóng góp một phần lớn vào những thành công trên địa bàn thủ đô. Hơn thế nữa, đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: "phải thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu”... “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển ", một lần nữa Dự thảo Đại hội IX vừa qua Đảng ta đã khẳng địmh: " từng bước phát triển nền kinh tế tri thức...”. Điều này chứng tỏ Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước so với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trước yêu cầu và tính bức xúc đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội đến năm 2005”. Trong phạm vi bài viết tôi chỉ xin phép nội dung việc quản lí chi NSNN trong ngành giáo dục phổ thông trên địa bàn thủ đô Hà nội. Nội dung đề tài gồm ba phần ngoài lời mở đầu và phần kết luận. Phần thứ nhất: Hoạt động giáo dục và vai trò cuẩ chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Phần thứ hai: Thực trạng về công tác quản lí chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội những năm qua. Phần thứ ba: Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thủ đô những năm tơí. Vì điều kiện hiểu biết có hạn, thời gian tiếp cận thực tế tại Sở Tài chính-Vật giá Hà nội không được dài vì vậy trong quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài không tránh khoỉ những thiếu sót, tôi rất mong nhận dược sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô trong khoa, các bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề này. Tôi xin chân thành cảm ơn, thầy giáo:GVC Trần Đạị, các cô, chú trong Sở Tài chính-Vật giá Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết. Tôi xin chân thành cảm ơn! PHẦN THỨ NHẤT HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC VÀ VAI TRÒ CỦA CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI. 1. Giáo dục nền tảng văn hoá và nhân cách con người việt nam. Trải qua bốn ngìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc việt nam với truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất đã không chịu lùi bước trước bất kì một thế lực thù địch nào. Chúng ta đứng lên bảo vệ tổ quốc, bảovệ độc lập tự chủ bảo vệ cái quyền mà “thượng đế đã trao cho mỗi người chúng ta”. Bao nhiêu năm đã trôi qua song tinh thần ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam, cha ông ta đã đứng lên xây dựng tổ quốc thì mỗi thế hệ chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ lấy nó và phát triển nó lên một tầm cao mới và đó cũng là mong muốn ngàn đời mà Bác Hồ đã căn dặn đồng bào. Hết thế này sang thế hẹ khác cái mong muốn được " sánh vai cùng các cường quốc năm châu " cứ thao thức như dòng sông quê hương, như mảnh đất mẹ không bao giờ dừng lại trong mỗi thế hệ người Việt Nam. Ham học hỏi, khám phá và gìn giữ những gì mà cha ông ta đã để lại đó là vốn quí, là "tài sản vô giá" của dân tộc Việt Nam. Tiếp thu và gìn giữ những “cổ vật văn hoá” ấy có sự đóng góp không nhỏ của ngành giáo dục quốc gia. Giáo dục đã giúp lưu giữ cái hay cái đẹp của những thế hệ trước, giúp thế hệ sau rút ra những bài học kinh nghiệm cho những bước tiến sau này, và dần sự nối tiếp ấy đã phát triển và trở thành không thể thiếu trong tâm thức mỗi thế hệ con ngươì Việt Nam. Và phải chăng vì điều ấy chúng ta nói rằng: ”Giáo duc là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc ...” Quan niệm về giáo dục của một quốc gia cũng có nhiều ý kiến khác nhau: có ý kiến cho rằng: ”giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người” và đây cũng là dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người....tuy nhiên theo một khía cạnh nào đó thì giáo dục được hiểu là việc trang bị những kiến thức và hình thành nhân cách con người. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: ” Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ”, phải chăng trong đó người đã nhắc nhở toàn xã hội phải luôn luôn gìn giữ và phát triển sự nghiệp trồng người. Và một điều mà chúng ta không thể phủ nhận là phát triển nhân ttố con người luôn đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. 2. Giáo dục tri thức cần thiết tiến tới nền “kinh tế tri thức..." Lần lại những trang sử huy hoàng của dân tộc Việt nam ta mới thấy được những biến cố quan trọng tạo nên bước ngoặt lịch sử cho quốc gia nhỏ bé này. Bao khổ đau mất mát dân ta phải chịu đã tạo nên nhân cách con người Việt nam. Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân ta đã từng cho rằng, cái đói cái rét không sợ bằng cái dốt. Và cũng không phải ngẫu nhiên Bác tố cáo hành động vô liêm sỉ của thực dân Pháp - chúng đầu độc dân ta bằng rượu cồn nha phiến - với mục đích “dốt để trị”. Người từng nói : ”nạn giặc dốt là một trong những phương thức độc ác nhất mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta bị mù chữ, nhưng chỉ cần 3 tháng là đủ để chúng ta học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ “. Đồng thời Người cũng khẳng định: ”một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Không chỉ dừng lại ở Người, các vị lãnh đạo của chúng ta sau người cũng băn khoăn lo lắng cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Bởi lẽ giáo dục trực tiếp cung cấp cho xã hội những con người có đủ tri thức, sự hiểu biết để đưa đất nước cập nhật những thành tựu tri thức mới. Hiến pháp 1992 nêu rõ: ”Nhà nước phát triển giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài”. Một quốc gia có “dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh” khi quốc gia ấy mọi người được giáo dục một cách toàn diện. Đúng vậy, để đạt được mục tiêu tốt đẹp ấy, thiết nghĩ chúng ta phải tìm cho ra được động lực của sự phát triển? Đó không phải là cái gì khác mà chính là tri thức, mà giáo dục đem chi thức đến cho mọi người. Các nước trên thế giới đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà thực sự còn là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và nâng cao múc sống nhân dân. Như chúng ta đã biết tri thức nhân loại là vô tận và khả năng con người chi phối sự nảy mầm cuả ”Trồi non tri thức “ấy. đưa khoa học kĩ thuật vào thực tế cuộc sống đó là những gì mà loài người chúng ta mong muốn. Lấy tri thức làm quan điểm đồng thời làm nhân sinh quan cho các quyết định mang tính toàn cục cuả quốc gia ... nhà nước ta không ngừng nâng cao công tác quản lí, đưa giáo viên lên một vị trí mới nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược con người mà nghị quyết trung ương 4 đề ra là : cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu đó là động lực thúc đẩy và điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước, phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của nhà nước. Đó là một chiến lược có tầm quan trọng bậc nhất trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một đất nước có nền công nghiệp phát triển tất yếu phải có những con người có đầy đủ tri thức, trình độ để phát minh sáng chế áp dụng khoa học kĩ thuật vào cuộc sống và sản xuất. Các nước chậm phát triển muốn phát triển phải hết sức quan tâm đến giáo dục. Chỉ có một chiến lược phát triển con người đúng đắn mới giúp các nước thuộc thế giơí thứ 3 thoát khỏi sự nô lệ về kinh tế và công nghệ... Khai giảng năm học 1995-1996 tổng bí thư Đỗ Mười nói: “Con người là nguồn lực quí báu đồng thời là mục tiêu cao cả nhất , tất cả do con người và vì hạnh phúc của con người, trong đó trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia. Vì vậy đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài là vấn đề có tầm chiến lược là yếu tố quyết định tương lai của đất nước”. Giáo dục tự nó cung cấp cho xã hội những nhà kinh tế, những kĩ sư, bác sĩ và những nhà khoa học có đủ năng lực trình độ hiểu biết từ đó nó hợp thành lực lượng sản xuất to lớn đủ diều kiện để đưa đât nước tiến vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của tri thức, khoa học và công nghệ tiên tiến....Giáo dục mãi là nhiệm vụ không thể thiếu trong xã hội loài người tương lai - giáo dục là cơ sở của tri thức con người. II. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC. 1. Chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giaó dục. 1.1: Khái niệm ngân sách nhà nước và chi ngân sách nhà nước. * Ngân sách nhà nước. Khi nhắc đến ngân sách nhà nước,có rất nhiều khái niệm ngân sách nhà nước được đưa ra: Từ điển bách khoa toàn thư của Liên xô (cũ ) cho rằng: "ngân sách nhà nước là bản liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn của nhà nước". Theo từ điển Pháp thì: Ngân sách nhà nước là bản kế hoạch thu nhập , chi tiêu quốc gia trong tương lai. Nó được ông quốc khố đại thần trình ra trước nghị viện xem xét và có những đề xuất thay đổi thuế khoá, những đề xuất đó sau này được đổi thành luật trong năm tài chính. Sự phát triển của xã hội loài người đồng nghĩa với sự thay đổi và phát triển của các quan hệ xản xuất, nền kinh tế tập trung cũng dần được thay đổi bằng nền kinh tế thị trường, khái niệm ngân sách nhà nước cũng được hiểu theo nghĩa khác: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. * Chi ngân sách nhà nước: Là quá trình phân phối lại quĩ tiền tệ theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của nhà nước. 1.2: Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Ngân sách không tách rời nhà nước, cùng với việc xuất hiện nhu cầu về tài chính là sự xuất hiện nhà nước nhằm chi tiêu cho mục đích bảo vệ sự tồn tại của nhà nước, đó là các khoản chi cho bộ máy của nhà nước, cho cảnh sát, quân đội, tiếp đến là nhu cầu chi khác nhằm thực hiện chức năng của nhà nước như: chi cho các nhu cầu văn hoá, giáo dục đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội, trợ cấp xã hội, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, hệ thống kết cấu hạ tầng ... Hoạt động của sự nghiệp giáo dục có ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng lao động của con người. Chúng ta biết rằng lao động của con người luôn mang tính hai mặt: một mặt là phần lợi ích mà con người được hưởng từ lao động, đó là tiền lương, phúc lợi xã hội. Mặt khác nó còn là tiềm lực của sản xuất vì nó là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên lực lượng sản xuất. Và vấn đề đặt ra đối với chúng ta là phải quan tâm đến tính hai mặt đó của lao động để lao động sáng tạo ra giá trị sử dụng và giá trị thặng dư trên cơ sở năng cao chất lượng lao động, vì vậy nhà nước phải quan tâm nhiều đến giáo dục nhằm đào tạo con người toàn diện, đó chính là yếu tố đảm bảo sự vững chắc của thể chế chính trị của mỗi quốc gia hiện nay. Như vậy chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là cần thiết. Đứng trên góc độ nào đó mà xét ta thấy rằng: chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã hội nhằm góp phần đảm bảo,duy trì phát triển kinh tế xã hội thông qua việc sử dụng quĩ tiền tệ tập chung của nhà nước mà không hoàn trả trực tiếp. 1.3: Ngân sách nhà nước với các lĩnh vực phải chi. Với vai trò to lớn của mình Ngân sách nhà nớc phải đảm đương một công việc vô cùng to lớn và đa dạng, cụ thể như: * Chi phát triển kinh tế : gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi vốn lưu động, chi sự nghiệp phát triển kinh tế, chi dự trữ, chi tạo nguồn vay với các dự án ...( chi dự án 120 : quĩ hỗ trợ giải quyết việc làm, chi chương trình 327: phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chi trương trình chống xuống cấp của ngành giáo dục ... * Chi sự nghiệp văn xã: gồm các khoản chi nhằm phát triển sự nghiệp văn xã như chi cho giáo dục - đào tạo, chi sự nghiệp y tế, chi văn hoá thông tin, chi sự nghiệp thể dục thể thao, chi để thực hiện các chính sách xã hội: như chính sách ưu tiên đối với ngời miền núi, hải đảo và các khoản chi cho sự nghiệp văn hoá xã hội khác... * Chi quản lí hành chính: Gồm các khoản chi nhằm duy trì sự phát triển của cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan của Đảng, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội... * Chi quốc phòng- an ninh: Đó là các khoản chi duy trì sự hoạt động của Bộ quốc phòng, Bộ công an... Ngoài các khoản chi trên còn có các khoản chi khác: chi trả nợ, chi viện trợ, đóng góp cho các tổ chức quốc tế tham gia ... Để nâng cao chất lượng ngành giáo dục cần phải có sự đầu tư mà trước hết là đầu tư bằng tiền. Vốn đầu tư cho phát triển giáo dục có thể được khai thác dưới nhiều hình thức khác nhau song hiện nay ở nước ta vẫn chủ yếu là từ ngân sách nhà nước đài thọ, từ đó hình thành nên khoản chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Xét về mặt hình thức,chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là sự thực hiện quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị từ quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm duy trì và phát triển một nền giáo dục quốc gia đáp ứng yêu cầu của cuộc đổi mới cũng như yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nhưng nếu xét về lâu dài thì chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi mang tính tích luỹ, là nhân tố quyết định mức độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai,đặc biệt là trong thời đại mới khi mà khoa học kĩ thuật trực tiếp là yếu tố sản xuất, khi tỉ lệ chất xám trong giá trị của cải vật chất làm ra ngày càng lớn. Đó là kết quả của quá trình đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục. 1.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Trong mỗi giai đọan khác nhau, mức độ, nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục cũng có sự khác nhau, sự khác nhau đó bắt nguồn từ các nhân tố ảnh hưởng sau: - Chế độ chính trị mà mỗi quốc gia theo đuổi: Tuỳ theo chế độ chính trị của mỗi quốc gia mà nhà nước quyết định những nhiệm vụ kinh tế - chính trị xã hội, do đó nó quyết định đến nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. - Mức độ phát triển của lực lượng sản xuất: Đây là nhân tố vừa tạo ra tiền đề, khả năng cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Bởi lẽ nhân lực con người là yếu tố quyết định sản xuất, mà đầu tư cho giáo dục là đầu tư để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Tù đó xây dựng và tạo lập nên những kĩ sư, bác sĩ, cán bộ kinh doanh ....tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Phạm vi và mức độ bao cấp của nhà nước cho lĩnh vực giáo dục: Chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đó chính là bao cấp bảo đảm phúc lợi xã hội cho mọi người dân, nó không chỉ phụ thuộc vào chế độ chính trị, từng giai đoạn lịch sử mà còn phụ thuộc vao mục tiêu xã hội trong những thời kì nhất định, mà mức độ và khả năng chi của ngân sách cho từng cấp học là khác nhau, với mức độ bao nhiêu. - Thực trạng trang thiết bị, phương tiện phục vụ giảng dạy học tập: Đây chính là yếu tố quyết định trực tiếp đến cơ sở vật chất trong nhà trường của nhà nước và xã hôị, phúc lợi xã hội có được nâng cao và nhìn nhận khi nó được biểu hiện qua số mét vuông nhà ở /người dân; số km đường/người dân... - Tốc độ tăng trưởng dân số : Việc qui mô dân số mở rộng trong điều kiện trang thiết bị hạn chế từ đó làm giảm phúc lợi xã hội/người dân. Để đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân không ngừng tăng lên khi dân số tăng đồng nghĩa với việc đầu tư thêm về phúc lợi cho toàn xã hội về mọi mặt nói chung và trang thiết bị cho ngành giáo dục nói riêng. Và cũng có nghĩa chi cho giáo dục tăng lên. Việc xác định đúng các nhân tố và nhận biết chúng ảnh hưởng như thế nào đến cơ cấu nội dung chi ngân sách là cần thiết để đảm bảo chi tiết kiệm và hiệu quả và đạt phúc lợi xã hội một cách tối đa. 1.5: Nguyên tắc đảm bảo chi ngân sách tiết kiệm - hiệu quả. Khả năng là có giới hạn và nhu cầu là vô hạn đó là lí do tại sao chúng ta đa ra yêu cầu chi tiết kiệm và hiệu quả. Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta nhắc đến hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra, bỏ vào đâu và thực hiện như thế nào? Đó là câu hỏi mà chúng ta luôn phải bận tâm. Vì vậy các nhà kinh tế để đảm bảo yêu cầu này đã đề ra ba nguyên tắc chi: ( Nguyên tắc quản lí theo dự toán. Đề ra nguyên tắc này, các nhà kinh tế nhằm mục đích thống nhất và tập chung một mối trong việc thực hiện chi ngân sách nhà nước nói chung và chi thường xuyên nói riêng mà chi cho giáo dục là một trong những nội dung trong đó nhất thiết phải đảm bảo, xuất phát từ một số cơ sở và thực tiễn sau: - Thứ nhất: Hoạt động của chi ngân sách nhà nước đặc biệt là cơ cấu thu - chi ngân sách nhà nước, đồng thời phải luôn chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước. - Thứ hai: phạm vi và mức độ chi cho từng lĩnh vực là rất khác nhau vì vậy nhất thiết phải tạo ra những định mức chi riêng hợp lí cho mỗi đối tượng. Tôn trọng nguyên tắc quản lí theo dự toán đối với các khoản chi thường xuyên được nhìn nhận dưới góc độ sau: - Mọi nhu cầu chi thường xuyên nói chung và chi giáo dục nói riêng nhất thiết phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua việc xét duyệt của các cơ quan quyền lực nhà nước từ thấp đến cao và quyết định cuối cùng do quốc hội xem xét đề ra. - Trong quá trình tổ chức thực hiện dự toán cho mỗi cấp, phải căn cứ vào dự toán kinh phí đã được duyệt mà phân bổ và sử dụng. Dự toán chi cho mỗi khoản mục chỉ được phép sử dụng trong khoản mục đó và hạch toán theo đúng mục lục ngân sách nhà nước. - Phải lấy dự toán làm căn cứ đối chiếu, so sánh khi quyết toán kinh phí và phân tích đánh giá thực hiện của từng kì báo cáo. Vì vậy nhất thiết phải đồng nhất trong việc xác lập các chỉ tiêu và khoản mục trong quyết toán và dự toán chi. ( Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. Đây có lẽ là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lí tài chính nhà nước: nguồn lực là có hạn và nhu cầu là vô hạn vì vậy chúng ta phải chi làm sao mà với mức phí bỏ ra thấp nhất song hiệu quả đạt được lại cao nhất? Hơn thế nữa do hoạt động của ngân sách nhà nước diễn ra rộng và đa dạng phức tạp, nhu cầu chi luôn gia tăng với mức độ không ngừng trong giới hạn huy động các nguồn thu. Chính vì vậy để tiết kiệm và hiệu quả được tôn trọng chúng ta phải làm tốt và đồng bộ một số nội dung sau: - Xây dựng các định mức tiêu chuẩn chi phù hợp với từng đối tượng hay tính chất công việc, đồng thời bảo đảm tính thực tiễn cao. - Thiết lập các hình thức cấp phát đa dạng, từ đó tạo tiền đề cho việc lựa chọn các tiêu thức phù hợp cho mỗi đối tượng quản lí. - Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các hoạt động hoặc nhóm mục chi phù hợp với ngân sách mà hiệu quả cao. Nói tóm lại tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt đối lập của nguyên tắc này song nó lại có mỗi quan hệ tương hỗ với nhau nếu chúng ta sử dụng hợp lí các đồng vốn, do vậy khi xem xét phải đặt chúng trong quan hệ tương hỗ, xem xét lợi hại khi chọn vì chúng luôn chi phối lẫn nhau. ( Nguyên tắc “ Chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước ”. Đề ra nguyên tắc này cũng là lí do để nhà nước khai thác tối đa hiệu quả của các công cụ hành chính. Kho bạc nhà nước có chức năng qua