Luận văn Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường cao đẳng giao thông vận tải 3

Thời đại ngày nay nếu kỹ thuật năm trước là hiện đại nhất thì năm sau đã lạc hậu mất rồi. Ý tưởng đào tạo ra những con người có kiến thức cơ bản vững chắc và biết sử dụng chúng với phương pháp suy luận đúng đắn để giải quyết những vấn đề những tình huống mới, cần được khuyến khích. Bên cạnh đó, xu hướng thực tế hơn do nhịp độ phát triển kinh tế của Việt Nam yêu cầu nhân lực cho công nghệ mới. Chúng ta đang bước vào những năm đầu tiên của thế kỉ mới, với vai trò trí tuệ con người luôn được nhắc đến. Để tiếp tục phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì điều kiện tiên quyết mà Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra là sự cần thiết phải khai thác nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người – những lớp người được giáo dục và đào tạo, có tầm trí tuệ cao, tay nghề thành thạo và phẩm chất tốt đẹp là vốn quý nhất quyết định sự thành công. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương là xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc phát triển bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

pdf106 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1657 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường cao đẳng giao thông vận tải 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  NGUYỄN VĂN TOÀN MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN NỘI TRÚ TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI 3 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC VĂN HÓA GIÁO DỤC Mã số: 5.07.03 Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. HOÀNG TÂM SƠN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2004 Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban quản lý kí túc xá trường Cao đẳng GTVT3 cùng toàn thể anh em, bạn bè trong trường đã tạo những điều kiện về vật chất và tinh thần thuận lợi, giúp tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp và nhiệm vụ học tập của mình. Xin chân thành cảm ơn Phòng Khoa học công nghệ – Sau đại học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và các thầy cô đã hết lòng giảng dạy, truyền thụ những kiến thức rất cần thiết, bổ ích cho công việc và cho cuộc sống của những người học viên lớp Cao học Quản lý Văn hóa – Giáo dục, khóa 11 chúng tôi. Đặc biệt là những lời biết ơn sâu sắc về công lao dìu dắt, sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo, người hướng dẫn khoa học – Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nhà giáo Ưu Tú Hoàng Tâm Sơn đã giúp tôi hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này. NHỮNG TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN CĐ : Cao đẳng CNH-HĐH : Công nghiệp hoá – hiện đại hoá ĐH : Đại học GD : Giáo dục QL : Quản lý GTVT : Giao thông Vận tải HS-SV : Học sinh-sinh viên KTX : Kí túc xá QLGD : Quản lý giáo dục SV : Sinh viên PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời đại ngày nay nếu kỹ thuật năm trước là hiện đại nhất thì năm sau đã lạc hậu mất rồi. Ý tưởng đào tạo ra những con người có kiến thức cơ bản vững chắc và biết sử dụng chúng với phương pháp suy luận đúng đắn để giải quyết những vấn đề những tình huống mới, cần được khuyến khích. Bên cạnh đó, xu hướng thực tế hơn do nhịp độ phát triển kinh tế của Việt Nam yêu cầu nhân lực cho công nghệ mới. Chúng ta đang bước vào những năm đầu tiên của thế kỉ mới, với vai trò trí tuệ con người luôn được nhắc đến. Để tiếp tục phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì điều kiện tiên quyết mà Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra là sự cần thiết phải khai thác nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người – những lớp người được giáo dục và đào tạo, có tầm trí tuệ cao, tay nghề thành thạo và phẩm chất tốt đẹp là vốn quý nhất quyết định sự thành công. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương là xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc phát triển bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Để xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội theo các tiêu chí trên, vấn đề nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân” Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” (Tr.108, 109)[6] Việt Nam đang ở trong quá trình thực hiện CNH-HĐH. GTVT là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện CNH nền kinh tế quốc dân, trước hết phải xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển. Nói cách khác, CNH-HĐH ngành GTVT đi trước một bước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư CNH- HĐH các ngành nghề khác. Tiền đề của CNH-HĐH GTVT trước hết phải đầu tư cho đào tạo nhân lực. Trường Cao đẳng GTVT3 là một trong những cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành GTVT với nhiệm vụ cụ thể: đào tạo cán bộ kỹ thuật bậc trung học và cử nhân cao đẳng về GTVT cung cấp cho các sở GTVT các tỉnh và các công ty xây dựng công trình, đơn vị tư vấn thiết kế, quản lý GTVT thuộc trung ương và địa phương nằm trên địa bàn khu vực Nam Trung bộ và Nam bộ. Trong những năm gần đây, số lượng học sinh được tuyển vào trường ngày càng tăng, phần lớn các em đều ở xa lên thành phố học nên nhu cầu được ở trong KTX của trường cũng gia tăng. Trước tình hình này, nhà trường đã đầu tư mở rộng nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng để tạo nhiều chỗ ở hơn cho các em, song vì diện tích sân bãi còn hạn hẹp nên vẫn không giải quyết được tất cả các nhu cầu xin ở kí túc tại KTX nhà trường. Với số lượng lưu học sinh nội trú tăng lên đột biến đã đặt ra cho công tác quản lý giáo dục nếp sống ăn ở, học tập, sinh hoạt cho số lượng học sinh trên là rất lớn. Điều này đòi hỏi Ban quản lý KTX, Phòng quản lý sinh viên và nhà trường phải xem xét lại thực trạng về công tác quản lý KTX nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên. Từ những thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3” làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp. Hy vọng và mong muốn của chúng tôi là đóng góp một phần nhỏ cho việc cải tiến và nâng cao chất lượng quản lý nếp sống sinh viên nội trú trong nhà trường mà chúng tôi đang công tác. 2. Đối tượng và khách thể của đề tài nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu: là thực trạng một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên nội trú b. Khách thể nghiên cứu: là sinh viên đang nội trú trong KTX trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3. 3. Giới hạn của đề tài Do thời gian nghiên cứu không nhiều và khả năng của tác giả còn có những hạn chế nhất định, vì thế luận văn chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu thực trạng về hoạt động quản lý giáo dục nếp sống sinh viên lưu trú tại KTX trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 và biểu hiện nếp sống của sinh viên qua những hoạt động chủ yếu diễn ra trong phạm vi KTX. Những hoạt động ngoài KTX trường, đề tài không có điều kiện nghiên cứu. 4. Mục đích của đề tài nghiên cứu Làm rõ thực trạng một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 và trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nếp sống cho sinh viên. 5. Giả thiết nghiên cứu Nếp sống của sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải3 phụ thuộc vào các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên của trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1. Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. 6.2. Khảo sát đánh giá thực trạng nếp sống sinh viên và thực trạng công tác quản lý giáo dục nếp sống sinh viên trong kí túc xá thông qua các hoạt động học tập, sinh hoạt, lao động và giao tiếp ứng xử. 6.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Nghiên cứu tài liệu, sách báo, tư liệu lưu trữ, báo cáo, tổng kết liên quan đến đề tài nghiên cứu. 7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát các sinh hoạt, hoạt động của của sinh viên ở kí túc xá cũng như hoạt động quản lý giáo dục của các cán bộ quản lý nhằm thu thập các tư liệu bổ sung. Phương pháp phỏng vấn: tiến hành trao đổi trực tiếp với các sinh viên ở kí túc xá, các cán bộ quản lý kí túc xá và cán bộ các phòng ban, các tổ chức có liên quan đến công tác học sinh sinh viên ở kí túc xá. Phương pháp điều tra: điều tra bằng phiếu câu hỏi với 300 sinh viên nội trú, 20 cán bộ, giáo viên bao gồm các cán bộ quản lý kí túc xá, cán bộ phòng quản lý học sinh sinh viên, Đoàn thanh niên trường và các giáo viên liên quan đến công tác học sinh, sinh viên ở kí túc xá. 7.3. Phương pháp ứng dụng toán thống kê. Sử dụng để xử lý các kết quả điều tra trong quá trình nghiên cứu. 8. Địa điểm nghiên cứu Kí túc xá trường Cao đẳng Giao thông vận tải 3. 9. Đóng góp mới của đề tài - Góp phần làm phong phú lý luận và thực tiễn về nếp sống của sinh viên trong kí túc xá. - Đề xuất được một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên nội trú có cơ sở khoa học, phù hợp với đặc điểm của trường Cao đẳng giao thông vận tải 3 nói riêng, sự nghiệp trồng người nói chung. - Đề tài còn là một tư liệu tham khảo cho các trường. 10. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát đề tài, đối tượng – khách thể, mục đích, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu Phần nội dung: Gồm 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Thực trạng về các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông vận tải 3 Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 Phần kết luận chung và kiến nghị Tài liệu tham khảo và phụ lục Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Vấn đề nghiên cứu lối sống, nếp sống đã được đề cập đến từ lâu qua nhiều công trình nghiên cứu công phu như công trình “Việt Nam Phong tục” của cụ Phan Kế Bính (1875-1921). Ông đã nghiên cứu công phu về các phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam qua bao thăng trầm của bề dầy lịch sử 4000 năm. Tất cả những thói quen, nếp sống của con người Việt Nam từ xưa đến đầu thế kỉ XX được tác giả phản ánh một cách khách quan, từ đó ca ngợi những phẩm chất, cái đẹp của con người Việt Nam đồng thời cũng mạnh dạn đánh giá, phê phán các yếu tố lạc hậu, trì trệ trong lối sống, nếp sống đi ngược lại thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hoá dân tộc. Tư tưởng của cụ rất gần gũi với tư tưởng các thế hệ con cháu ngày nay. Ngoài ra, tác giả Toan Ánh, trong cuốn “Phong tục Việt Nam” đã phân tích nguồn gốc, sự biến đổi nhiều thói quen, tập quán. Một số ý kiến phê phán của cụ Phan Kế Bính và tác giả Toan Ánh như phê phán thói cờ bạc, khóc mướn, đa thê, hút thuốc, mê tín trong lễ hội, lãng phí trong đám cưới đã được nghị quyết Trung Ương V khoá 8 quán triệt, đổi mới nhằm xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Trong tài liệu “Sửa đổi lề lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh việc xây dựng lối sống, nếp sống mới, cách làm việc mới. Đại hội IV và V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nếp sống mới. Trong văn kiện đại hội IV có ghi khái niệm “nếp sống mới có văn hoá”, “vận động một cách kiên trì và sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hoá trong xã hội, đưa cái đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao động sản xuất” (Tr. 25)[4] Trong Đại hội V, văn kiện dùng khái niệm lối sống: “Cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ, tiên tiến và lạc hậu, tiến bộ với phản động, trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng và lối sống đang diễn ra hàng ngày rất phức tạp.” (Tr. 10)[5] Trong nghị quyết V ban chấp hành Trung Ương khoá 8, Đảng ta dành riêng để bàn về lĩnh vực văn hoá. Nội dung nghị quyết gồm 6 vấn đề quan trọng thì vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống, nếp sống được đặt lên đầu tiên. Trong toàn văn nghị quyết V có nhiều lần thuật ngữ lối sống, nếp sống được nhắc đến như “tư tưởng đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hoá” hay như “lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh” Như vậy, vấn đề nếp sống đã được quan tâm rất sâu sắc không chỉ các nhà khoa học mà các nhà quản lý xã hội cũng rất chú trọng tới việc quản lý giáo dục nếp sống. Trong thời gian gần đây hàng loạt những công trình nghiên cứu về lối sống, nếp sống đã được thực hiện theo tinh thần đổi mới của ban chấp hành Trung Ương Đảng do những thay đổi rõ nét về kinh tế, xã hội đang diễn ra sôi động đưa đến những biến đổi trong lối sống, nếp sống, định hướng giá trị con người Việt Nam nói chung, giới sinh viên học sinh nói riêng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu lối sống, nếp sống ở đối tượng sinh viên đã được công bố như sau: - “Tổ chức tốt cuộc sống sinh viên ở KTX nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho họ” (Kỷ yếu hội thảo định hướng giá trị giáo dục đạo đức trong các trường ĐH; Hà Nội 1996) của Nguyễn Thị Kỷ - “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” của PGS. PTS Mạc Văn Trang làm chủ nhiệm đề tài (Năm 1998, mã số B94-38-32) - “Các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên trường Cao đẳng Sư Phạm Mẫu giáo Trung Ương 3” của Đặng Văn Thuân (Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, năm 1999) Ngoài ra một số chuyên đề bài báo viết về lối sống, nếp sống sinh viên như: - “Nếp sống xã hội của sinh viên” của PTS Vũ Dũng, viện tâm lý trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 01/1997) - “Sinh hoạt trong KTX sinh viên, sân chơi chưa lành mạnh” của Hồ Thu (Báo Sài Gòn giải phóng, 24/11/2003) Qua những công trình, tài liệu nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy các tác giả đã tiếp cận với những góc độ khác nhau trên các đối tượng sinh viên thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Riêng mảng đề tài về sinh viên giao thông vận tải thì chưa có tác giả nào đề cập. Từ những bức xúc về công tác quản lý giáo dục nếp sống trong kí túc xá trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3, chúng tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3”. Hy vọng và mong muốn của chúng tôi là đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục nếp sống sinh viên nội trú trong kí túc xá của trường mà chúng tôi đang công tác. 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhận định: “Là một khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng, Giao thông vận tải đáng lẽ phải đi trước một bước để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, nhưng nhiều năm qua chúng ta chưa chú ý đúng mức, nên việc vận chuyển hàng hoá có nhiều khó khăn, việc đi lại của nhân dân có nhiều phiền hà trắc trở.” Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta nêu rõ: “Ưu tiên phát triển Giao thông vận tải đường thuỷ, tăng tỉ trọng vận tải đường sắt, sắp xếp hợp lý vận tải đường bộ, phát triển giao thông vận tải hàng không. Động viên các tổ chức kinh tế tập thể và nhân dân góp sức, góp vốn mở mang đường giao thông nông thôn, miền núi, phát triển các phương tiện vận tải, nhất là phương tiện thô sơ, nửa cơ giới, khắc phục sự ách tắc trong vận tải hàng hoá, cải thiện một bước sự đi lại của nhân dân.” Những thành tựu bước đầu sau đại hội VI và khảo sát thực tiễn các nước phát triển trên thế giới; Đảng ta khẳng định Giao thông Vận tải phải đi trước một bước, phát triển với tốc độ cao với trình độ tiên tiến và tiêu chuẩn hiện đại, vì điều đó sẽ tạo động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ ngành Giao thông Vận tải phải “phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới Giao thông Vận tải.” Giao thông Vận tải là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân; để thực hiện CNH nền kinh tế quốc dân, trước hết phải xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại đáp ứng kịp nhu cầu phát triển. Nói cách khác CNH-HĐH, ngành Giao thông Vận tải đi trước một bước sẽ tạo điều kiện thuận lợi đầu tư CNH-HĐH các ngành nghề khác. Tiền đề của CNH-HĐH Giao thông vận tải trước hết phải đầu tư cho đào tạo nhân lực, muốn có nhân lực cần đầu tư cho các cơ sở đào tạo này có đủ điều kiện để đảm đương sứ mạng lịch sử trước thiên niên kỷ mới. Từ thực trạng và yêu cầu phát triển kinh tế ngành Giao thông Vận tải như trên, Nhà nước đã rất nổ lực trong việc đào tạo ra đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề, có phẩm chất tốt, năng động, sáng tạo, có nếp sống khoa học, văn minh, kỉ cương và tinh thần kỉ luật cao. Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 cũng như nhiều trường Công nhân kỹ thuật, Trung học chuyên nghiệp và Đại học chuyên ngành Giao thông Vận tải đã đáp ứng phần nào yêu cầu trên. 1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”. Ngày nay, bước sang giai đoạn CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đã đề ra định hướng lớn về phát triển giáo dục và khoa học công nghệ: “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước” (Tr. 112)[6]. Trong đó đặc biệt chú trọng việc phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 Việt Nam phải đạt được trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến trong khu vực ở phần lớn các ngành trọng điểm. Việc c
Luận văn liên quan