1. Lý do chọn đề tài.
Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm chủ đạo mở rộng HTQT về GD và tổ chức thực hiện tốt chủ trương đầu tư để phát triển GD, nâng cao chất lượng đào tạo của nước ta: “Nỗ lực phấn đấu để GD - ĐT thực sự là quốc sách hàng đầu cả về đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ, tổ chức quản lý, và chính sách ưu tiên. Bên cạnh việc tăng đầu tư cho GD từ ngân sách nhà nước Bộ chính trị cho rằng cần phải đa dạng hoá và chú trọng phát huy các nguồn lực khác, các thành phần kinh tế, tinh thần hiếu học của từng gia đình và mở rộng HTQT để tăng mạnh hơn nữa đầu tư cho GD - ĐT, nhằm tăng dần điều kiện và cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển GD như: kiên cố hoá trường học. ; đồng thời phải hết sức chú ý kiểm tra chặt chẽ, nâng cao hiệu quả, chống lãng phí trong đầu tư phát triển GD - ĐT. [23]
Trên cơ sở quán triệt đường lối chỉ đạo về GD - ĐT của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết TW 2 của BCH TW Đảng Khoá XIII coi “GD là quốc sách hàng đầu”, trong những năm qua, ngành GD - ĐT đã nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tập trung phát triển GD mạnh hơn, khẩn trương và hiệu quả hơn, theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, đưa nền GD nước nhà vào thế ổn định với chất lượng GD toàn diện, nhằm đào tạo có chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH- HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong đó, công tác GDĐH đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Trên quan điểm so sánh hệ thống, trong 20 năm đổi mới vừa qua, cùng với những thành tựu kinh tế đạt được của cả nước, GDĐH Việt Nam đã làm được nhiều điều đáng tự hào. Chúng ta đã bám sát xu thế phát triển của thời đại, lựa chọn các mô hình GDĐH tiên tiến để nghiên cứu áp dụng. So sánh với các nước trong khu vực đã bước vào nền kinh tế thị trường trước chúng ta, không phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế như ở nước ta, GDĐH Việt Nam đã tiến khá nhanh trong thế ổn định và hội nhập.
GDĐH đã tranh thủ được sự hỗ trợ và giúp đỡ quý báu của nhiều tổ chức trong nước và quốc tế, góp phần từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của ngành GD - ĐT.
GDĐH phát triển trên cơ sở bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội để thực hiện CNH - HĐH; nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và đi vào kinh tế tri thức.
“Bảo đảm hiệu quả GD bằng chính sách sử dụng nguồn nhân lực, tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ phát triển kinh tế xã hội ” [23]
Tuy nhiên, GD - ĐT nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu, và nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Nói cách khác, sự nghiệp GD - ĐT đang đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô GD - ĐT, vừa phái gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo. Trong tình hình hiện nay, khi mà quy mô phát triển chưa phù hợp với điều kiện thực có, chất lượng đào tạo còn chưa cao, vấn đề về quản lý GD còn nhiều hạn chế, nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước còn nhiều eo hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của công tác đào tạo thì việc đẩy mạnh HTQT nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài dành cho GD và GDĐH là hết sức cần thiết. Song song với việc tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài thông qua việc đầu tư các DA về GD và GDĐH , việc QLTH tốt các DA đó thực sự trở thành cấp thiết trong toàn ngành.
Để đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn đầu tư hỗ trợ về GDĐH thực sự có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng GDĐH , chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề: “Một số biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành “Quản lý giáo dục”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
- Đối tượng nghiên cứu: các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình cải cách và xây dựng hệ thống GDĐH Việt Nam, việc khai thác có hiệu quả sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành GD - ĐT. Nếu có được biện pháp phù hợp để QLTH tốt các nguồn giúp đỡ quý báu về tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị và chuyên môn nghiệp vụ . trong nước và quốc tế thì đó là điều kiện hết sức thuận lợi để trường ĐH Vinh không ngừng đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về QLTH DA phục vụ đào tạo ĐH trong trường ĐH
- Đánh giá thực trạng tình hình QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
- Đề xuất các biện pháp QLTH DA GDĐH có hiệu quả ở trường ĐH Vinh trong giai đoạn mới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá, khái quát hoá văn kiện của Đảng, Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của ngành GD - ĐT, các ngành khác và các công trình nghiên cứu, các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng của QLTH DA GDĐH để đề xuất những biện pháp tăng cường hoạt động này, bao gồm:
- Điều tra xã hội học đối với cán bộ quản lý thuộc Ban điều phối DA GDĐH , lãnh đạo nhà trường, cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo, lãnh đạo và thành viên Ban QLTH TDA GDĐH Trường ĐH Vinh.
- Quan sát thực tế hoạt động QLTH DA GDĐH
- Tổng kết kinh nghiệm về QLTH DA GDĐH
- Xin ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý GD - ĐT và QLTH DA GDĐH .
6.3. Các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu và các kết quả nghiên cứu.
7. Những điểm mới của đề tài
- Đề tài sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý GD và các lãnh đạo, cán bộ trong ban QLTH TDA GDĐH thấy được những thành tựu và hạn chế về QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
- Đề xuất những biện pháp phù hợp để QLTH tốt DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho khu vực các tỉnh Bắc miền Trung nói riêng và cho cả nước nói chung.
8. Giới hạn của đề tài nghiên cứu
Công tác QLTH DA GDĐH là một hoạt động phức tạp, bao hàm nhiều vấn đề, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều trường CĐ, ĐH trong cả nước . Trong đề tài này, tác giả giới hạn:
- Nội dung nghiên cứu: Hoạt động QLTH TDA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
- Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý thuộc Ban điều phối DA GDĐH , lãnh đạo trường ĐH Vinh, cán bộ quản lý và thành viên thuộc ban QLTH TDA GD ĐH trong trường ĐH Vinh.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khuyến nghị, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý DA phục vụ đào tạo ĐH
Chương 2: Thực trạng công tác QLTH DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng GD ĐT ở trường ĐH Vinh
Chương 3: Các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh
Cuối luận văn có: danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
97 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1997 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp tăng cường quản lý thực hiện dự án giáo dục đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Đại học Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Lý do chọn đề tài.
Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm chủ đạo mở rộng HTQT về GD và tổ chức thực hiện tốt chủ trương đầu tư để phát triển GD, nâng cao chất lượng đào tạo của nước ta: “Nỗ lực phấn đấu để GD - ĐT thực sự là quốc sách hàng đầu cả về đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ, tổ chức quản lý, và chính sách ưu tiên. Bên cạnh việc tăng đầu tư cho GD từ ngân sách nhà nước Bộ chính trị cho rằng cần phải đa dạng hoá và chú trọng phát huy các nguồn lực khác, các thành phần kinh tế, tinh thần hiếu học của từng gia đình và mở rộng HTQT để tăng mạnh hơn nữa đầu tư cho GD - ĐT, nhằm tăng dần điều kiện và cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển GD như: kiên cố hoá trường học. …; đồng thời phải hết sức chú ý kiểm tra chặt chẽ, nâng cao hiệu quả, chống lãng phí trong đầu tư phát triển GD - ĐT. [23]
Trên cơ sở quán triệt đường lối chỉ đạo về GD - ĐT của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết TW 2 của BCH TW Đảng Khoá XIII coi “GD là quốc sách hàng đầu”, trong những năm qua, ngành GD - ĐT đã nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tập trung phát triển GD mạnh hơn, khẩn trương và hiệu quả hơn, theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, đưa nền GD nước nhà vào thế ổn định với chất lượng GD toàn diện, nhằm đào tạo có chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH- HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong đó, công tác GDĐH đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Trên quan điểm so sánh hệ thống, trong 20 năm đổi mới vừa qua, cùng với những thành tựu kinh tế đạt được của cả nước, GDĐH Việt Nam đã làm được nhiều điều đáng tự hào. Chúng ta đã bám sát xu thế phát triển của thời đại, lựa chọn các mô hình GDĐH tiên tiến để nghiên cứu áp dụng. So sánh với các nước trong khu vực đã bước vào nền kinh tế thị trường trước chúng ta, không phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế như ở nước ta, GDĐH Việt Nam đã tiến khá nhanh trong thế ổn định và hội nhập.
GDĐH đã tranh thủ được sự hỗ trợ và giúp đỡ quý báu của nhiều tổ chức trong nước và quốc tế, góp phần từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của ngành GD - ĐT.
GDĐH phát triển trên cơ sở bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội để thực hiện CNH - HĐH; nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và đi vào kinh tế tri thức.
“Bảo đảm hiệu quả GD bằng chính sách sử dụng nguồn nhân lực, tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ phát triển kinh tế xã hội ” [23]
Tuy nhiên, GD - ĐT nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu, và nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Nói cách khác, sự nghiệp GD - ĐT đang đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô GD - ĐT, vừa phái gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo. Trong tình hình hiện nay, khi mà quy mô phát triển chưa phù hợp với điều kiện thực có, chất lượng đào tạo còn chưa cao, vấn đề về quản lý GD còn nhiều hạn chế, nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước còn nhiều eo hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của công tác đào tạo thì việc đẩy mạnh HTQT nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài dành cho GD và GDĐH là hết sức cần thiết. Song song với việc tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài thông qua việc đầu tư các DA về GD và GDĐH , việc QLTH tốt các DA đó thực sự trở thành cấp thiết trong toàn ngành.
Để đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn đầu tư hỗ trợ về GDĐH thực sự có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng GDĐH , chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề: “Một số biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành “Quản lý giáo dục”.
Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Hoạt động QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
Đối tượng nghiên cứu: các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
Giả thuyết khoa học
Trong quá trình cải cách và xây dựng hệ thống GDĐH Việt Nam, việc khai thác có hiệu quả sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành GD - ĐT. Nếu có được biện pháp phù hợp để QLTH tốt các nguồn giúp đỡ quý báu về tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị và chuyên môn nghiệp vụ ... trong nước và quốc tế thì đó là điều kiện hết sức thuận lợi để trường ĐH Vinh không ngừng đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về QLTH DA phục vụ đào tạo ĐH trong trường ĐH
Đánh giá thực trạng tình hình QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
Đề xuất các biện pháp QLTH DA GDĐH có hiệu quả ở trường ĐH Vinh trong giai đoạn mới.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá, khái quát hoá văn kiện của Đảng, Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của ngành GD - ĐT, các ngành khác và các công trình nghiên cứu, các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng của QLTH DA GDĐH để đề xuất những biện pháp tăng cường hoạt động này, bao gồm:
Điều tra xã hội học đối với cán bộ quản lý thuộc Ban điều phối DA GDĐH , lãnh đạo nhà trường, cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo, lãnh đạo và thành viên Ban QLTH TDA GDĐH Trường ĐH Vinh.
Quan sát thực tế hoạt động QLTH DA GDĐH
Tổng kết kinh nghiệm về QLTH DA GDĐH
Xin ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý GD - ĐT và QLTH DA GDĐH .
6.3. Các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu và các kết quả nghiên cứu.
Những điểm mới của đề tài
Đề tài sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý GD và các lãnh đạo, cán bộ trong ban QLTH TDA GDĐH thấy được những thành tựu và hạn chế về QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
Đề xuất những biện pháp phù hợp để QLTH tốt DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho khu vực các tỉnh Bắc miền Trung nói riêng và cho cả nước nói chung.
Giới hạn của đề tài nghiên cứu
Công tác QLTH DA GDĐH là một hoạt động phức tạp, bao hàm nhiều vấn đề, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều trường CĐ, ĐH trong cả nước ... Trong đề tài này, tác giả giới hạn:
Nội dung nghiên cứu: Hoạt động QLTH TDA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý thuộc Ban điều phối DA GDĐH , lãnh đạo trường ĐH Vinh, cán bộ quản lý và thành viên thuộc ban QLTH TDA GD ĐH trong trường ĐH Vinh.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khuyến nghị, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý DA phục vụ đào tạo ĐH
Chương 2: Thực trạng công tác QLTH DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng GD ĐT ở trường ĐH Vinh
Chương 3: Các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh
Cuối luận văn có: danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DỰ ÁN PHỤC VỤ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ĐH là một trong những hoạt động quan trọng đối với ngành GD - ĐT nói chung và trường ĐH Vinh nói riêng, góp phần không nhỏ trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ phục vụ cho đất nước trong thời kỳ mới.
Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã khẳng định: “Muốn tiến hành CNH - HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh về GD - ĐT, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững”[23]. Ngành GD đứng trước thử thách và khó khăn mới, những nhiệm vụ hết sức nặng nề, chính vì vậy, công tác HTQT càng trở nên quan trọng, góp phần vào sự nghiệp phát triển của ngành và mở rộng hợp tác GD - ĐT, động viên cao độ các nguồn lực trong nước và tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
Tại Điều 109 Luật GD 2005 “khuyến khích hợp tác về GD với Việt Nam” qui định: Tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được Nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện để giảng dạy, học tập, đầu tư, tài trợ, hợp tác, ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ về GD ở Việt Nam ….[36]
Công tác QLTH các DA đầu tư về GDĐH đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với trường ĐH Vinh trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong công cuộc CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên, cho tới nay mới chỉ có các công trình nghiên cứu nhằm tăng cường hoạt động HTQT trong ngành GD - ĐT nói chung, chưa có những công trình nghiên cứu nhằm tìm ra các biện pháp cấp thiết góp phần nâng cao hiệu quả công tác QLTH các DA đầu tư về GD.
GS.TSKH Trần Văn Nhung – Thứ trưởng Bộ GD - ĐT trong cuốn “GD và ĐT – Hướng dẫn thông tin Hợp tác đầu tư Việt Nam – Khu vực” đã đưa ra nhiều định hướng quan trọng liên quan đến các DA quốc tế nhằm tăng thêm nguồn lực cho GD - ĐT thông qua HTQT, trong đó có đề cập đến việc tranh thủ hỗ trợ của các nước có trình độ kỹ thuật cao, có kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giảng dạy ĐH, NCKH…. và các cơ sở đào tạo Việt Nam cần chú ý chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ năng lực để tranh thủ được nhiều DA và triển khai có hiệu quả. Tuy nhiên, đó là những phương hướng chung cho toàn ngành chứ chưa đi sâu vào vấn đề làm thế nào để tăng cường công tác QLTH các DA đầu tư cho GD [14].
Biên bản ghi nhớ đợt công tác về giám sát giữa kỳ DA GDĐH do Ngân hàng Thế giới triển khai đợt 29/4 đến 17/5/2002, có sự tham gia của đại diện Hội đồng chỉ đạo liên bộ DA GDĐH, Ban Điều phối DA , Ban Đánh giá DA , các Vụ liên quan của Bộ GD - ĐT…. Có đánh giá về tình trạng hiện thời (năm 2002) (a) phân tích tiến trình thực hiện cho đến thời điểm giữa kỳ trong tương quan so sánh với kế hoạch ban đầu; (b) xác định đến các vấn đề của DA liên quan đến việc lập kế hoạch, đấu thầu, giải ngân và (c) đánh giá xem cácmục tiêu phát triển có còn phù hợp không …. Tuy nhiên, báo cáo này mới chỉ đề cập những vấn đề rất chung cho toàn DA GDĐH, về tình hình thực hiện DA trên cơ sở so sánh tương quan các chỉ số thực hiện với các chỉ số ban đầu khi thiết kế DA. Với tính chất đánh giá thực hiện giữa kỳ, báo cáo này chưa đưa ra những biện pháp cụ thể về tình hình QLTH các TDA ở từng trường ĐH cụ thể.
Tóm lại, trong các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ đề cập đến các vấn đề tăng cường hoạt động HTQT nhằm tranh thủ sự hỗ trợ tối đa của các cá nhân, tổ chức quốc tế về GD thông qua quá trình nghiên cứu hoạt động HTQT nói chung chứ chưa có các công trình nghiên cứu về tăng cường công tác QLTH các DA đầu tư giáo dục.
Để cải cách và xây dựng nền GD Việt Nam XHCN tiến vào thế kỷ 21, quan điểm xem GD là quốc sách hàng đầu là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, tác động mạnh mẽ đến các hoạt động trên các lĩnh vực, đặc biệt quan trọng đối với việc tăng cường xã hội hoá GD và đẩy mạnh QHQT để bổ sung thêm nguồn lực cho GD - ĐT và sớm hội nhập khu vực và quốc tế.
Đối với trường ĐH Vinh, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, nhà trường đã thiết lập và đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác với một số tổ chức, cá nhân nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn lực để hỗ trợ nâng cao chất lượng đào tạo ĐH. Trong bối cảnh đó, Nhà trường đã tiếp nhận, QLTH một số các DA đầu tư về GDĐH , NCKH…. Tuy vậy, từ trước đến nay, chưa có tác giả nào cũng như chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề QLTH DA GD nói chung trong các trường ĐH và trong trường ĐH Vinh nói riêng. Chính vì vậy, việc tổ chức nghiên cứu để tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QLTH TIỂU DỰ ÁN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG TRƯỜNG ĐH VINH” là đòi hỏi cấp thiết nhằm tìm ra các biện pháp phù hợp để tăng cường công tác QLTH TDA GDĐH trong trường ĐH Vinh, từng bước hoàn chỉnh cơ chế quản lý công tác thực hiện DA giáo dục, góp phần thiết thực vào nâng cao chất lượng đào tạo, đúng như tên gọi của nguồn đầu tư là Quỹ NCCL đào tạo, nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho công cuộc CNH - HĐH đất nước.
Để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc tăng cường công tác QLTH Tiểu DA GDĐH trong trường ĐH Vinh, cần xác định rõ những khái niệm liên quan đến tăng cường biện pháp QLTH TDA GDĐH và những yếu tố ảnh hưởng đến công tác QLTH TDA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
1.2.1. Quản lý và quản lý giáo dục
Quản lý là sự tác động liên tục có tính tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế … bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển cuả đối tượng. Đối tượng quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người cụ thể, sự vật cụ thể.
Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua những nồ lực của người khác.
Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. [33]
Thuật ngữ quản lý có nhiều định nghĩa khác nhau về cách diễn đạt, nhưng về bản chất có thể hiểu:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội.
Mục tiêu quản lý: Là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng quản lý hoặc của một số yếu tố cấu thành nó.
Nguyên tắc quản lý: Là những quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà các cơ quan quản lý và các nhà lãnh đạo (các chủ thể quản lý) phải tuân thủ trong quá trình quản lý.
Phương pháp quản lý: Là tổng thể các cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý (cấp dưới và tiềm năng có được của hệ thống) và khách thể quản lý (các hệ thống khác, các ràng buộc của môi trường …), để đạt được các mục tiêu đề ra.
Chức năng quản lý: Là loại hình đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá quá trình quản lý. Quản lý có 4 chức năng cơ bản quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau và tạo thành chu trình quản lý, đó là chức năng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra cùng các hoạt động chung khác là thông tin và ra quyết định. Mỗi chức năng có vai trò, vị trí riêng trong chu trình quản lý. Thông tin là mạch máu của quản lý. Ra quyết định là hoạt động thường xuyên của quản lý.
Quản lý GD - ĐT là hoạt động điều hành công tác đào tạo trong phạm vi của ngành giáo dục.
Thuật ngữ “giáo dục” thường được hiểu như một khái niệm chung để chỉ nhận thức, học vấn về những giá trị nhân cách trong một giai đoạn phát triển lịch sử. Nhân cách được cụ thể hoá bằng hàng loạt những giá trị, nhất là những giá trị tiêu biểu. Hệ thống giá trị nhân cách được định hướng theo những chuẩn mực cho từng thời kỳ phát triển KT - XH, cho các cấp bậc đào tạo.
Giáo dục/đào tạo ĐH được hiểu là bồi dưỡng đào tạo nhân cách ở bậc sau phổ thông (bậc ĐH ). Bậc ĐH theo nghĩa rộng gồm cấp cao đẳng, ĐH , thạc sỹ, tiến sỹ. Thông thường còn sử dụng khái niệm đào tạo ĐH và đào tạo sau ĐH. Đào tạo ĐH gồm cấp cao đẳng và ĐH. Đào tạo sau ĐH gồm cấp thạc sỹ và tiến sỹ.
Thuật ngữ “đào tạo” thường được hiểu như một khái niệm để chỉ những giá trị hiểu biết về kỹ năng nghề nghiệp, về khoa học, kỹ thuật, công nghệ... Khái niệm đào tạo không nằm ngoài khái niệm giáo dục. Đào tạo phải có giá trị nhân cách, vì mục tiêu đào tạo là toàn diện, phải có đức, có tài, có phẩm chất chính trị.
Quản lý đào tạo bao gồm các lĩnh vực quản lý mục tiêu, nội dung, chương trình, các chuẩn mực đào tạo, quy trình tổ chức đào tạo, việc giảng dạy, học tập cũng như việc kiểm tra, đánh giá, kiểm soát các chuẩn mực đảm bảo chất lượng. Nhiệm vụ trung tâm của nhà trường là đào tạo. Chất lượng đào tạo quyết định sự tồn vong của cơ sở đào tạo. Quản lý đào tạo thực chất là quản lý chất lượng.
1.2.2. Chất lượng và chất lượng đào tạo.
Có những quan điểm khác nhau về chất lượng, trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi quan niệm chất lượng gắn với sản phẩm – mà sản phẩm đào tạo ĐH ở đây là con người – chính là những sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH – nguồn nhân lực phục vụ cho xây dựng đất nước trong sự nghiệp CNH – HĐH.
Chất lượng đào tạo có thể coi là “tập hợp các đặc tính, tiềm năng của sinh viên tốt nghiệp, đáp ứng mục tiêu đào tạo đã đề ra và có khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường, của đất nước”
1.2.3. Quản lý DA và thực hiện DA
DA là cách tiếp cận trong quản lý được sử dụng rất nhiều vào những thập kỷ 50, 60, và 70 thế kỷ XX. Tuy nhiên, cách tiếp cận quản lý này mới được đưa vào Việt Nam những năm gần đây.
Có tác giả cho rằng DA là hoạt động tạo ra sản phẩm cụ thể bằng cách phối hợp những cán bộ chuyên môn làm việc trong một nhóm [50]. Hoặc DA là một đơn vị được tổ chức đề ra để đạt được một mục tiêu hay tạo ra một sản phẩm với những thuộc tính xác định, đúng thời gian, sử dụng một lượng nguồn lực định trước. Có thể có nhiều định nghĩa về DA nhưng nhìn chung, DA có thể được xem là một hoạt động (đơn vị công việc) được tiến hành bởi một nhóm người (một đội) để đạt được những mục tiêu (sản phẩm) nhất định, trong khoảng thời gian nhất định và với chi phí xác định [ 51].
Có một số tài liệu đưa ra một số định nghĩa cụ đối với DA. Theo tác giả Gary R. Heerkens trong cuốn Quản lý DA : “Một nỗ lực tạm thời được thực hiện để đạt được một mục tiêu cụ thể ” [20].
Bất cứ DA loại nào thì đều có một số đặc tính chung, cụ thể:
Một DA thực tế là sự đáp ứng một nhu cầu, là biện pháp cho một vấn đề. Ngoài ra, nó là một biện pháp hứa hẹn một lợi ích – thường là một lợi ích tài chính. Mục đích căn bản của hầu hết các DA đó là làm ra tiền hoặc tiết kiệm tiền.
Một DA có bản chất tạm thời; có nghĩa là nó có một điểm xuất phát và đích đến cụ thể. Một DA được định nghĩa kỹ gồm các công việc nhỏ (các phần việc) và thường rốt cuộc dẫn đến việc tạo ra một sản phẩm hoặc sản phẩm chung cuộc (Các sản phẩm bàn giao). Sẽ có một trình tự thi hành được ưu tiên đối với các công việc của DA (lịch biểu).
Một DA là một công việc duy nhất, một lần; nó sẽ không bao giờ được thực hiện lại y như vậy, bởi những người như vậy và trong một môi trường như vậy nữa.
Sẽ luôn có một mức độ không chắc chắn nào đó kết hợp với DA của bạn. Tính không chắc chắn này tiêu biểu cho sự rủi ro – một mối đe doạ luôn có mặt đối với khả năng lập các kế hoạch cuối cùng và tiên đoán các kết quả có các mức độ tin tưởng cao. Tất cả các DA đều tiêu thụ các tài nguyên – các tài nguyên theo dạng thời gian, tiền bạc, các vật tư và các lao động. Một trong những nhiệm vụ chính của nhà quản lý DA là phục vụ như người quản lý chung các tài nguyên này một cách có hiệu quả.
Quản lý DA :
Các tài liệu về quản lý DA hiện đại không đề cập đến định nghĩa DA mà đi ngay vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể [53].
Viện quản lý DA định nghĩa quản lý DA là “… ứng dụng kiến thức, các kỹ năng, các công cụ và các kỹ thuật vào các hoạt động DA để đáp ứng các yêu cầu của DA ” [48].
Các DA thường có các giai đoạn DA (vòng đời DA ) có thể định danh và mỗi giai đoạn có một loạt các thách thức duy nhất đối với nhà quản trị DA . Nếu xem tiến trình DA từ cấp cao nhất, ta có thể định danh bốn giai đoạn DA cơ bản và nên tiếp cận quản lý DA theo mô hình bốn giai đoạn dưới đây:
Trong giai đoạn đầu tiên, giai đoạn Khởi đầu, nhu cầu được định danh. Một đáp ứng thích hợp đối với nhu cầu được định danh. Một đáp ứng thích hợp đối với nhu cầu được xác định và được mô tả. ( Đây thực tế là nơi DA bắt đầu). Các nhóm